Bản án 01/2018/HS-ST ngày 18/01/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK GLONG, TỈNH ĐẮK NÔNG  

BẢN ÁN 01/2018/HS-ST NGÀY 18/01/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 18 tháng 01 năm 2018, tại phòng xử án, Tòa án nhân dân huyện Đắk Glong xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 70/2017/HSST ngày 27-12-2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2018/QĐXXST-HS ngày 05-01- 2018 đối với bị cáo:

Trương Minh L, tên gọi khác: M, sinh năm 1981 tại tỉnh Quảng Bình; nơi ĐKNKTT: Tổ dân phố B, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; nơi cư trú: Tổ B, phường N, thị xã G, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn T và bà Lê Thị L; có vợ là Võ Thị V và 01 con; hiện bị cáo đang được tại ngoại theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 32 ngày 04-8-2017 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Glong; có mặt.

- Bị hại: Cháu Đặng Thùy L, sinh năm 2015 (chết)

- Người đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Đặng Hoàng L và bà Nguyễn Thị Kim T là bố và mẹ của cháu L; cùng địa chỉ: Bon N, xã Q, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty TNHH MTV thương mại và xây dựng H; địa chỉ: Tổ B, phường N, thị xã G, tỉnh Đắk Nông; người đại diện theo pháp luật: Ông Hồ Văn Tử C, chức vụ: Giám đốc; người được ủy quyền: Ông Hồ Minh T; địa chỉ: Tổ B, phường N, thị xã G, tỉnh Đắk Nông, theo Giấy ủy quyền đề ngày 16-5-2017; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 01-02-2015, Trương Minh L, có giấy phép lái xe hạng C, ký hợp đồng lao động với Công ty TNHH MTV thương mại và xây dựng H, với công việc chính là Lái xe.

Khoảng 13 giờ ngày 25-4-2017, L điều khiển xe ô tô BKS: 48C-039.42 của Công ty để đi chở cát từ xã Q, huyện K về Thị xã G. Đến khoảng 20 giờ 20 phút cùng ngày khi L điều khiển xe đến Km 219+300, Quốc lộ 28, thuộc thôn H, xã Đ, L điều khiển xe rẽ sang đường bên trái để đi vào bãi đất trống để kiểm tra xe. Cùng lúc này, ông Đặng Hoàng L điều khiển mô tô BKS 48B1-382.19 chở theo sau vợ là Nguyễn Thị Kim T và con gái Đặng Thùy L lưu thông theo hướng ngược lại, khi thấy xe ô tô do L điều khiển đi ngược chiều đang rẽ sang đường bên trái, không xi nhan sang đường nên ông L cho xe tấp vào lề đường bên phải theo chiều đi của mình để tránh va chạm. Do lề đường gồ ghề nên xe bị loạng choạng làm ngã hai mẹ con bà T ngã ra đường và bị lốp xe phía sau bên trái của xe ô tô BKS 48C-039.42 cán qua đầu cháu L và tay của bà T. Hậu quả: Cháu L chết tại chỗ, bà T bị thương ở tay trái.

Kết quả khám nghiệm hiện trường ngày 25-4-2017 đã xác định được như sau: Hiện trường nơi xảy ra vụ tại nạn giao thông thuộc Km 219+300, Quốc lộ 28 thuộc địa phận thôn H, xã Đ, huyện Đ là đoạn đường thẳng, dốc lên 02% theo hướng G đi Q, được trải nhựa có chiều rộng 6m60 được phân cách bằng vạch kẻ sơn màu vàng đứt quãng để phân chia phần đường; hai bên đường đều có lề đường, bên phải có lề đường đất rộng 1m60, bên trái có lề đường bê tông rộng 60cm theo hướng G đi Q. Lấy mép đường bên phải theo hướng đi từ G về Q làm mép đường chuẩn, lấy cột mốc H4/219 nằm bên phải làm điểm khóa cố định để tiến hành đo đạc: Vị trí xe mô tô BKS: 48B1-382.19 dựng đứng trên mặt đường nhựa đầu xe quay về hướng Bắc, đuôi xe quay về hướng Nam; khoảng cách từ tâm trục bánh trước xe mô tô đo vào mép đường chuẩn là 1m40, khoảng cách từ tâm trục bánh sau xe mô tô đo vào mép đường chuẩn là 1m25; tử thi Đặng Thùy L nằm ngửa trên mặt đường nhựa; đầu tử thi quay về hướng Tây, hai chân tử thi duỗi thẳng theo hướng Đông; nạn nhân có chiều dài toàn thân 78cm; đầu nạn nhân bị biến dạng theo hướng từ trái qua phải, đầu tóc bám dính máu, tổ chức não bị thoát ra ngoài. Khoảng cách từ đầu nạn nhân đến mép đường chuẩn là 2m50, đến tim đường là 80cm, đến trục sau xe mô tô BKS 48B1-382.19 là 4m30. Căn cứ vào các dấu vết để lại trên hiện trường xác định điểm va chạm đầu tiên giữa xe ô tô BKS 48C-039.42 với tử thi Đặng Thùy L là tại đầu tử thi, khoảng cách từ điểm chạm đến mép đường chuẩn là 2m50, đến trục bánh trước xe mô tô BKS 48B1-382.19 là 5m50, đến tim đường là 80cm, đến mốc khóa hiện trường là 45m.

Vật chứng của vụ án: 01 xe ô tô BKS: 48C-039.42, nhãn hiệu FOTON, màu xanh, số máy 21615L074066, số khung 400AGC086346; 01 xe mô tô BKS: 48B1-382.19, nhãn hiệu HONDA, màu đen xanh, số máy JA31E0208367, số khung RLHJA3129EY039486.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 86/TT ngày 03-5-2017 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế tỉnh Đắk Nông kết luận nguyên nhân tử vong của nạn nhân Đặng Thùy L là do chấn thương sọ não.

Trong quá trình điều tra Trương Minh L và Công ty TNHH MTV Thương mại và xây dựng H đã cùng bồi thường thiệt hại cho người đại diện hợp pháp của bị hại là ông Đặng Hoàng L và bà Nguyễn Thị Kim T số tiền 145.000.000 đồng, ông L và bà T không yêu cầu bồi thường thêm và có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho Trương Minh L.

Tại bản Cáo trạng số 03/CTr-VKS, ngày 25-12-2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Glong truy tố Trương Minh L về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 1 Điều 202 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 60 của Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt Trương Minh L từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách từ 02 đến 03 năm tính từ ngày tuyên án. Vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận Quyết định xử lý vật chứng số 32a, ngày 14-8-2017 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Glong đã trả lại xe ô tô BKS: 48C-039.42 cho chủ sở hữu là Công ty TNHH MTV thương mại và xây dựng H và trả lại xe mô tô BKS: 48B1-382.19 cho chủ sở hữu là ông Đặng Hoàng L. Về trách nhiệm dân sự: Do ông Đặng Hoàng L và bà Nguyễn Thị Kim T là người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu Trương Minh L bồi thường thêm nên không đề cập giải quyết.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng truy tố, không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát. Khi nói lời sau cùng, bị cáo ăn năn hối cải và xin hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Đắk Glong, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Glong, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có  đủ căn  cứ kết  luận: Khoảng 20 giờ 20 phút ngày 25-4-2017 tại Km 219+300 Quốc lộ 28, thuộc thôn H, xã Đ, huyện Đ, Trương Minh L điều khiển xe ô tô BKS 48C-039.42, đi lấn phần đường quy định, không bật tín hiệu khi qua đường nên ông Đặng Hoàng L điều khiển xe mô tô đi ngược chiều phía sau chở vợ là bà Nguyễn Thị Kim T và con gái là cháu Đặng Thùy L phải đi xuống lề đường và bị ngã ra đường nên bánh sau xe ô tô đã cán qua đầu cháu L và tay trái của bà T. Hậu quả: Cháu L chết tại chỗ do chấn thương sọ não, bà T bị thương ở tay trái. Hành vi nêu trên của Trương Minh L đã vi phạm Điều 9, Điều 15 Luật giao thông đường bộ và gây hậu quả nghiêm trọng làm chết 01 người nên đã phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Glong truy tố bị cáo về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 1 Điều 202 của Bộ luật Hình sự năm 1999 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, cụ thể: Tại Điều 202 của Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định:

“1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

…”

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo và Công ty TNHH MTV thương mại và xây dựng H đã bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Mặt khác, bị cáo phạm tội do lỗi vô ý và có nơi cư trú rõ ràng nên xét thấy không cần cách ly mà cần áp dụng Điều 60 của Bộ luật Hình sự năm 1999 cho bị cáo hưởng án treo cũng đủ răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, cần chấp nhận Quyết định xử lý vật chứng số 32a, ngày 14-8-2017 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Glong đã trả lại xe ô tô BKS: 48C-039.42 cho chủ sở hữu là Công ty TNHH MTV Thương mại và xây dựng H và trả lại xe mô tô BKS: 48B1-382.19 cho chủ sở hữu là ông Đặng Hoàng L;

[5] Trách nhiệm dân sự: Do ông Đặng Hoàng L và bà Nguyễn Thị Kim T là đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bồi thường thêm nên không đề cập giải quyết.

[6] Đối với bà Nguyễn Thị Kim T có đơn từ chối giám định nên không có cơ sở để xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Trương Minh L phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

Áp dụng khoản 1 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; khoản 1, khoản 2 Điều 60 của Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo Trương Minh L 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm tính từ ngày tuyên án; giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường N, thị xã G, tỉnh Đắk Nông giám sát, giáo dục; gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Tr ường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện t heo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.

2. Vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận Quyết định xử lý vật chứng số 32a, ngày 14-8-2017 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Glong.

3. Trách nhiệm dân sự: Không đề cập.

4. Án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Trương Minh L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án về phần có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

257
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2018/HS-ST ngày 18/01/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:01/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Glong - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về