Bản án 01/2018/HS-ST ngày 17/01/2018 về tội giao cấu với trẻ em

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LAI VUNG, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 01/2018/HS-ST NGÀY 17/01/2018 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI TRẺ EM

Ngày 17 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 39/2017/HSST, ngày 23 tháng 11 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2017/QĐXXST-HS, ngày 06 tháng 12 năm 2017; Quyết định hoãn phiên tòa, ngày 26 tháng 12 năm 2017; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2017/QĐXXST-HS, ngày 26 tháng 12 năm 2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Tường S - Sinh ngày: 29/9/1997, tại: Đồng Tháp. Nơi cư trú: 1132B/TL, ấp TL, xã TL, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Trường C – Sn: 1975 và bà: Nguyễn Thị Hồng X - Sn: 1979; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam: Không; bị cáo hiện đang tại ngoại tại: 1132B/TL ấp TL, xã TT, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Người bị hại:

Nguyễn Ngọc Tuyết N - sinh ngày: 12/8/2005 (vắng mặt tại phiên tòa);

Trú tại: 139, ấp LB, xã HL, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp.

- Người đại diện hợp pháp của người bị hại:

1. Nguyễn Tấn L- sinh năm: 1976, cha ruột (vắng mặt tại phiên tòa);

2. Nguyễn Thị Trinh M - sinh năm: 1984, mẹ ruột (có mặt tại phiên tòa)

Cùng trú tại: 139, ấp LB, xã HL, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Nguyễn Thị Hồng X - sinh năm: 1979 (có mặt tại phiên tòa); Trú tại: 1132B/TL, ấp TL, xã TT, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại: Trợ giúp viên pháp lý là ông Hà Văn N - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đồng Tháp, Chi nhánh số 1 (có mặt tại phiên tòa); Địa chỉ: 466, NSS, Khóm 5, Phường 1, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.

- Người làm chứng: Nguyễn Trường C – Sinh năm: 1975 (vắng mặt tại phiên tòa); Trú tại: 1132B/TL, ấp TL, xã TT, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng đầu tháng 03 năm 2017, Nguyễn Tường S và Nguyễn Ngọc Tuyết N quen kết bạn qua mạng xã hội Zalo. Sau một thời gian tìm hiểu thì từ ngày 25/3/2017 đến ngày 27/3/2017 S chở N đi chơi, ăn uống và ngủ lại qua đêm tại Nều nhà trọ trên địa bàn huyện Lai Vung, nhưng không có giao cấu. Đến ngày 28/3/2017, S tiếp tục chở N đi ăn và chơi game, đến khoảng 21 giờ cùng ngày S chở N về nhà của , lúc này nhà S không có người nên S mở ti vi cùng xem với N. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, S và N đi vào phòng ngủ của S; lúc này, N tự cởi quần áo ra khỏi người N, còn S tự cởi quần áo S và lấy bao cao su trong túi quần S (S mua trước đó) mang vào dương vật đang cương cứng rồi S nằm lên mình của N giao cấu khoảng 05 phút thì xuất tinh trong bao cao su. Sau khi giao cấu xong, S và N tự mặc quần áo và ngủ cho đến sáng, còn bao cao su thì S đem bỏ vào sọt rác nên không thu giữ được. Đến khoảng 16 giờ, ngày 29/3/2017, anh Nguyễn Trường C và chị Nguyễn Thị Hồng X (là cha, mẹ của S) đi Châu Đốc về thì thấy N và hỏi thì N nói là bạn gái của S, được 16 tuổi; Sau đó chị Xuân đưa N về nhà và gặp cha mẹ của N là anh Nguyễn Tấn L và chị Nguyễn Thị Trinh M bàn bạc thống nhất khi N đủ tuổi sẽ làm đám cưới bên nhà gái. Đến 07/4/2017, bên nhà của S tổ chức đám cưới thì Cơ quan điều tra Công an huyện Lai Vung nhận được tin báo của quần chúng nhân dân nên tiến hành điều tra xác minh thì S thừa nhận có giao cấu với N.

Tại biên bản giám định pháp y về tình dục số 38/TD-TTPY ngày 07/4/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Tháp kết luận Nguyễn Ngọc Tuyết N như sau: Âm hộ không tổn thương, màng trinh dãn rộng, rách vị trí 09 giờ, 11 giờ, 03 giờ, bờ tù không chảy máu.

Căn cứ giấy khai sinh số 180, Quyển số 01, ngày 14/8/2007 của Ủy ban nhân dân xã HL, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp, ghi nhận Nguyễn Ngọc Tuyết N đã sinh vào ngày 12/8/2005.

Tại bản kết luận giám định pháp y về độ tuổi số 2578/C54B ngày 29/8/2017 của Phân viện Khoa học kỹ thuật hình sự tại TP. Hồ Chí Minh, kết luận như sau: Tại thời điểm giám định (tháng 7/2017) Nguyễn Ngọc Tuyết N có độ tuổi từ 14 năm đến 14 năm 06 tháng.

Tại cáo trạng số 41/CT-VKS ngày 02 tháng 11 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp, đã truy tố Nguyễn Tường S ra trước Toà án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp, để xét xử S về tội “Giao cấu với trẻ em” theo khoản 1 Điều 115 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên toà Kiểm sát viên khẳng định, việc truy tố trên là đúng người đúng tội, đúng pháp luật, Nguyễn Tường S là người đã thành niên lợi dụng tình cảm yêu thương của Nguyễn Ngọc Tuyết N mới hơn 14 tuổi, bị cáo đã giao cấuvới người bị hại một lần, hành vi của bị cáo có đầy đủ căn cứ để kết tội “Giao cấu với trẻ em” phạm vào khoản 1 Điều 115 Bộ luật hình sự năm 1999.

Trên cơ sở phân tích tính chất nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tội phạm, nhân thân của bị cáo, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 115; điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 BLHS; xử phạt Nguyễn Tường S từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời phát biểu của trợ giúp viên pháp lý và lời trình bày của những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Tại phần tranh luận bị cáo Nguyễn Tường S thừa nhận đã thực hiện hành vi giao cấu với Nguyễn Ngọc Tuyết N, bị cáo nhận tội nên không có tranh luận gì với Kiểm sát viên.

[1] Lời nhận tội của bị cáo Nguyễn Tường S là đúng với lời khai của người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, cụ thể vào ngày 28/3/2017 sau khi đi ăn và chơi game xong, S chở N về nhà của S rồi vào phòng ngủ của S giao cấu với nhau một lần, việc giao cấu này đã hoàn thành. Kết quả giám định pháp y đã kết luận Nguyễn Ngọc Tuyết N âm hộ không tổn thương, màng trinh dãn rộng, rách vị trí 09 giờ, 11 giờ, 03 giờ, bờ tù không chảy máu, các chứng cứ trên đã chứng minh lời khai của Nguyễn Tường S là có căn cứ, bị cáo là người đã thành niên, mà giao cấu với Nguyễn Ngọc Tuyết N mới hơn 14 tuổi, là xâm phạm danh dự nhân phẩm và làm tổn hại đến sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần của người bị hại, pháp luật hình sự nghiêm cấm, nhưng để thoả mảng dục vọng của mình, bị cáo S đã cố ý thực hiện hành vi giao cấu với người bị hại trong khi biết Nguyễn Ngọc Tuyết N là trẻ em, vì vậy hành vi của Nguyễn Tường S đã có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Giao cấu với trẻ em” phạm vào khoản 1 Điều 115 Bộ luật hình sự.

Tại khoản 1 Điều 115 BLHS có quy định:

“1. Người nào đã thành niên mà giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm”.

Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Tường S là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự, trị an ở địa phương, kỷ cương pháp luật bị xâm hại, xâm phạm đến danh dự và nhân phẩm của trẻ em, làm tổn hại đến sự phát triển về tinh thần và thể chất của Nguyễn Ngọc Tuyết N vi phạm nếp sống lành mạnh, văn minh của xã hội, vì dục vọng thấp hèn và lợi dụng sự nhẹ dạ của Nguyễn Ngọc Tuyết N, bị cáo S bất chấp dư luận, cố ý thực hiện hành vi giao cấu với trẻ em, vì vậy việc đưa bị cáo ra xét xử công khai như ngày hôm nay là cần thiết, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, đồng thời nhằm mục đích giáo dục phòng ngừa chung trong xã hội, cũng qua phiên toà này chúng ta cũng nghiêm khắc phê phán những bậc làm cha mẹ thiếu sự quan tâm chăm sóc đối với con cái, nhất là các cháu gái, đó là điều kiện dẫn đến sự đáng tiếc như vụ án này.

Tính chất vụ án là nghiêm trọng, thể hiện sự suy đồi về mặt đạo đức của bị cáo; xã hội và mọi người lên án, làm ảnh hưởng đến tâm sinh lý của người bị hại, vì vậy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để bị cáo học tập, lao động thành người có ích cho gia đình và xã hội.

[2] Tuy Nên Hội đồng xét xử cũng thấy rằng trong quá trình xét xử, bị cáo Nguyễn Tường S đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bản thân bị cáo thiếu hiểu biết về luật pháp, đồng thời sau khi sự việc xảy ra gia đình bị cáo đã khắc phục được 10.000.000đ và người đại diện hợp pháp của người bị hại yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; do đó cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, là phù hợp với điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Theo Nghị quyết số 41/2017/QH14, ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; những quy định có lợi cho người phạm tội thì “Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” được quy định tại Điều 145 của BLHS năm 2015 thì có quy định thêm khoản 4, còn tại Điều 115 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 thì quy định không có khoản 4; như vậy Điều 145 của Bộ luật hình sự năm 2015 không có lợi cho bị cáo, nên cần áp dụng theo Điều 115 BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009.

[3] Về trách Nệm dân sự: Người bị hại và người đại diện hợp pháp của người bị hại đã nhận 10.000.000đ của bị cáo nộp khắc phục, tại phiên tòa không yêu cầu gì thêm; nên Hội đồng xét xử không đặt thành vấn đề xem xét giải quyết.

Xử lý vật chứng: Vật chứng trao trả cho chủ sở hữu đúng theo quy định nên không cần xem xét.

Bị cáo Nguyễn Tường S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo, người bị hại, đại diện hợp pháp của người bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 115; điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tường S - phạm tội “Giao cấu với trẻ em”.

- Xử phạt Nguyễn Tường S - 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.

- Về án phí: Bị cáo Nguyễn Tường S phải chịu án phí sơ thẩm hình sự là 200.000đ.

- Bị cáo, người bị hại, đại diện hợp pháp của người bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 17/01/2018.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

390
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2018/HS-ST ngày 17/01/2018 về tội giao cấu với trẻ em

Số hiệu:01/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lai Vung - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về