Bản án 37/2017/HSST ngày 14/11/2017 về tội giao cấu với trẻ em

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 37/2017/HSST NGÀY 14/11/2017 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI TRẺ EM

Trong ngày 14 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng - Địa chỉ: ấp Trà Quýt A, thị trấn Châu Thành, huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 32/2017/HSST, ngày19/10/2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Thạch Thanh N; Sinh ngày 12/11/1996; Giới tính: Nam; Trú tại: ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Sóc Trăng; Nghề nghiệp: Làm thuê; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Khmer; Tôn giáo: Không ; Trình độ văn hóa: 6/12; Con ông Thạch Q, sinh năm1975 (s) và bà Danh Thị L, sinh năm 1974 (s); Anh chị em ruột: 03 người, lớn nhất làbị can, nhỏ nhất sinh năm 2006; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, kể từ ngày 28/8/2017 cho đến nay. (Bị cáo có mặt tại tòa).

* Người bị hại:

Thạch Thị H; Sinh ngày 27/12/2001; Trú tại: ấp G, xã A, huyện C, tỉnh SócTrăng (Có mặt).

* Người đại diện hợp pháp của người bị hại Thạch Thị H là bà Lâm Thị U, sinh năm 1966, trú tại ấp G, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (Có mặt).

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại Thạch Thị H là ông Nguyễn Vĩnh P - Luật sư của Văn phòng luật sư Nguyễn Vĩnh P, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

* Người bào chữa cho bị cáo Thạch Thanh N là bà Lương Thị Ngọc H - Trợ giúp viên pháp lý, thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Danh Thị L, sinh năm 1974, trú tại ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

2. Bà Trần H, sinh năm 1983, trú tại ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

3. Ông Danh H, sinh năm 1964, trú tại ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

4. Bà Thạch Thị T, sinh năm 1975, trú tại ấp P,  xã P, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

5. bà Lâm Thị V, sinh năm 1933, trú tại ấp G, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Thạch Thanh N bị Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào khoảng đầu năm 2017, giữa bị cáo Thạch Thanh N và bị hại Thạch Thị H có quen biết và nảy sinh tình cảm yêu thương trai gái với nhau. Trong khoảng thời gian từ ngày 13/3/2017 đến ngày 03/7/2017, N và H thường xuyên đi chơi chung với nhau và tự nguyện quan hệ tình dục với nhau 05 lần tại nhiều địa điểm khác nhau trên địa bàn huyện C, tỉnh Sóc Trăng, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Vào khoảng 20 giờ ngày 03/3/2017, khi H đang ở nhà của bà Lâm Thị V (là bà ngoại của Hạnh) trú tại ấp G, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng, thì H điện thoại rủ N đến nhà bà ngoại chơi, thì N đồng ý. Sau khi đến nhà bà V, thì H và N đi vào phòng ngủ của H (Vì H thường xuyên ở nhà của bà V) rồi tự nguyện quan hệ tình dục với nhau một lần. Đến khoảng 03 giờ sáng ngày 14/3/2017, thì H mở cửa cho N đi về nhà.

Lần thứ hai: Vào buổi tối ngày 15/5/2017, sau khi điều khiển xe mô tô chở H đi chơi, đến khoảng 22 giờ cùng ngày, thì N chở H đến nhà ông Trần H, trú tại ấp T , xã T, huyện C, tỉnh Sóc Trăng, để xin ngủ nhờ. Do ông H và N có quen biết với nhau, nên ông H đồng ý cho N vào nhà ngủ. Tại đây, N và H đã tự nguyện quan hệ tình dục với nhau một lần. Đến khoảng 03 giờ, ngày 16/5/2017, thì N điều khiển xe chở H về nhà.

Lần thứ ba: Vào khoảng 21 giờ ngày 11/6/2017, N điều khiển xe mô tô chở H đến nhà của ông Danh H, trú tại ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Sóc Trăng, để xin ngủ nhờ thì ông H đồng ý cho N vào nhà ngủ. Tại đây, N và H tiếp tục tự nguyện quan hệ tình dục với nhau một lần. Đến khoảng 03 giờ ngày 12/6/2017, N điều khiểm xe chở H về nhà.

Lần thứ tư: Vào khoảng 13 giờ ngày 29/6/2017, N rủ H đến chơi tại nhà của bà Thạch Thị T, trú tại ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (bà T là mẹ nuôi của N), thì H đồng ý. Tại đây, Nh và H tiếp tục quan hệ tình dục với nhau một lần tại phòng ngủ của bà T. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, N điều khiển xe chở H về nhà.

Lần thứ năm: Vào khoảng 19 giờ ngày 03/7/2017, N điều khiển xe mô tô chở H đi ra thành phố Sóc Trăng chơi. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, N chở H về nhà của N, rồi cả hai vào phòng tự nguyện quan hệ tình dục với nhau một lần. Đến khoảng 02 giờ30 phút ngày 04/7/2017, thì N điều khiển xe chở H về nhà.

Đến ngày 08/7/2017, bà Lâm Thị Ú (mẹ của H) có hỏi H về mối quan hệ giữa H và N, thì H  thừa nhận đã nhiều lần quan hệ tình dục với N. Sau đó, bà U đưa H đến Công an xã A để trình báo sự việc và tố cáo hành vi của Thạch Thanh N. Sau khi tiếp nhận tố giác của bà U, xét thấy hành vi của Thạch Thanh N có dấu hiệu tội phạm "Giao cấu với trẻ em" theo quy định tại Điều 115 Bộ luật hình sự, nên Công an xã A đã chuyển tố giác nói trên cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C, tỉnh Sóc Trăng để thụ lý điều tra theo quy định của pháp luật.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 24/TD-PY, ngày 19/7/2017 củaTrung tâm Pháp y, thuộc Sở Y tế  tỉnh Sóc Trăng, kết luận đối với Thạch Thị H

- Bộ phận sinh dục: Màng trinh có vết rách cũ vị trí 11 giờ, 12 giờ, 02 giờ, 06 giờ.

- Test thai: Âm tính.

- Tỉ lệ tổn thương cơ thể do bị xâm hại tình dục gây nên hiện tại là: 00%.

Trong quá trình điều tra, Thạch Thanh N đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình.

Xét thấy, hành vi của Thạch Thanh N có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện C, tỉnh Sóc Trăng đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết khởi tố bị can đối với Thạch Thanh N, về tội “Giao cấu với trẻ em” theo quy định tại Khoản 2, Điều 115 của Bộ luật hình sự và áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, kể từ ngày 28/8/2017 cho đến nay.

Tại cáo trạng số 35/QĐ-KSĐT, ngày 17/10/2017 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng để xét xử Thạch Thanh N, về tội “Giao cấu với trẻ em” theo quy định tại điểm a, khoản2, Điều 115 của Bộ luật hình sự.

Trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo Thạch Thanh N đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện như cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng đã truy tố.

Về trách nhiệm dân sự: người bị hại Thạch Thị H và đại diện hợp pháp của người bị hại là bà Lâm Thị U yêu cầu bị cáo Thạch Thanh N phải bồi thường danh dự, nhân phẩm và tổn thất tinh thần với số tiền là 10.000.000 đồng. Tuy nhiên, trước khi mở phiên tòa thì cha ruột bị cáo là ông Thạch Q đã đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện C nộp số tiền 500.000đ để khắc phục hậu quả cho bị hại H.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố. Sau khi luận tội, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, khoản 2, Điều 115; điểm b, o, p, khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 33; Điều 45 của Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Thạch Thanh N từ 03 năm tù đến 04 năm  tù, về tội “Giao cấu với trẻ em”.

Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, người bị hại Thạch Thị H và đại diện hợp pháp của bị hại là bà Lâm Thị U yêu cầu bị cáo Thạch Thanh N bồi thường thiệt hại về danh dự, nhân phẩm và tổn thất tinh thần với số tiền 10.000.000 đồng và bị cáo Thạch Thanh N đã đồng ý bồi thường số tiền nêu trên, nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận này giữa bị cáo và bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại.

Tại phiên toà hôm nay, người bào chữa cho bị cáo Thạch Thanh N có ý kiến cho rằng: Thống nhất quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát về tội danh, khung hình phạt và các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo. Tuy nhiên, bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại các điểm b, o, p, khoản 1 và khoản 2, Điều 46 Bộ luật Hình sự, nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù, là phù hợp.

Tại phiên toà hôm nay, người bảo vệ quyền và lợi hợp pháp của người bị hại Thạch Thị H thống nhất quan điểm với đại diện Viện kiểm sát về tội danh, khung hình phạt, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Thạch Thanh N. Tuy nhiên, bị cáo đã có hành vi nhiều lần giao cấu với người bị hại là hành vi nguy hiểm cho xã hội, đồng thời Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành truy tố bị cáo khoản 2 Điều 115 Bộ luật hình sự và đề nghị mức hình phạt từ 03 năm đến 04 là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, cân nhắc khi lượng hình đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, người bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại cũng đã yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại về danh dự, nhân phẩm và tổn thất tinh thần với số tiền 10.000.000 đồng và bị cáo cũng đã đồng ýbồi thường số tiền trên, nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận này.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện C có ý kiến cho rằng: Thống nhất với ý kiến  luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại về tội danh, khung hình phạt, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Tuy nhiên, việc trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Thạch Thanh N từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù là chưa tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo cũng như chưa đủ sức răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội. Bởi vì, hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, hơn nữa, hiện nay tình hình tội phạm xâm hại tình dục trẻ em, đặc biệt là “Tội giao cấu với trẻ em” xảy ra rất phổ biến trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng nói chung và địa bàn huyện C nói riêng, nên cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo để răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội. Cho nên, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận lời đề nghị của luật sư về việc áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Thạch Thanh N từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, luật sư và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Tại phiên tòa vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần H, ông Danh H và bà Lâm Thị V, mặc dù Tòa án đã triệu tập hợp lệ, Hội đồng xét xử xét thấy sự vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử và lời khai của họ đã có trong hồ sơ vụ án, nên căn cứ Điều 191 và Điều 199 Bộ luật tố tụng hình sự xét xử vắng mặt người liên quan nêu trên.

Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Thạch Thanh N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo là phù hợp với lời khai trước đây của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với lời khai của người bị hại, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, kết luận giám định pháp y về tình dục và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, đã có đủ cơ sở xác định: Do có mối quan hệ tình cảm yêu thương trai gái với nhau, nên  bị cáo Thạch Thanh N và bị hại Thạch Thị H đã thuận tình quan hệ tình dục với nhau 05 lần và ở nhiều địa điểm khác nhau trong địa bàn huyện C, tỉnh Sóc Trăng.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 24/TD-PY, ngày 19/7/2017 củaTrung tâm Pháp y, thuộc Sở Y tế  tỉnh Sóc Trăng, kết luận đối với Thạch Thị H:

- Bộ phận sinh dục: Màng trinh vị trí 11 giờ, 12 giờ, 02 giờ, 06 giờ có vếch rách cũ.

- Test thai: Âm tính.

- Tỉ lệ tổn thương cơ thể do bị xâm hại tình dục gây nên hiện tại là: 00%.

Xét thấy, mặc dù khi bị cáo Thạch Thanh N giao cấu với bị hại H là không trái ýmuốn của H. Tuy nhiên, do khi bị cáo giao cấu với bị hại H thì H chưa đủ 16 tuổi. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã thực hiện là hành vi giao cấu với trẻ em. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Thạch Thanh N phạm tội “Giao cấu với trẻ em” như Viện kiểm sát nhân dân huyện C đã truy tố và khung hình phạt được áp dụng với tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Phạm tội nhiều lần” theo quy định tại điểm a, khoản 2, Điều 115 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Cụ thể là Khoản2, Điều 115 Bộ luật hình sự quy định:

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

a) Phạm tội nhiều lần;

b)…”

Bị cáo Thạch Thanh N là người có đầy đủ năng lực hành vi và năng lực pháp luật, bị cáo nhận thức được việc giao cấu với trẻ em là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì để thỏa mãn nhu cầu tình dục mà bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền được bảo vệ về nhân thân, danh dự nhân phẩm của trẻ em mà còn xâm phạm đến sự phát triển bình thường của trẻ em, gây mất trật tự trị an xã hội. Vì vậy, bị cáo phải bị xử lý nghiêm minh theo quy định pháp luật.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử có xem xét, cân nhắc trước khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo đã tự khai ra lần phạm tội trước đó và thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và trước ngày xét xử gia đình bị cáo là ông Thạch Q (là cha ruột bị cáo) nộp số tiền500.000 đồng để khắc phục hậu quả cho người bị hại tại Chi cục thi hành án huyện C,tỉnh Sóc Trăng. Do vậy, khi lượng hình, Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết nêu trên để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo quy định tại điểm b, o, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Đồng thời, cũng thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật nhà nước ta đối với người phạm tội.

Về bồi thường thiệt hại: Người bị hại Thạch Thị H và đại diện hợp pháp của người bị hại là bà Lâm Thị Ut yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại về danh dự, nhân phẩm và tổn thất tinh thần với số tiền 10.000.000 đồng. Tại tòa, bị cáo Thạch Thanh N đồng ý bồi thường số tiền nêu trên cho người bị hại. Xét thấy, sự thỏa thuận của bị cáo và người bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại là không trái pháp luật và đạo đức xã hội, nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận này.

Về án phí: Bị cáo là người bị kết án, nên bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Thạch Thanh N phạm tội “Giao cấu với trẻ em”.

Áp dụng điểm a, khoản 2, Điều 115; điểm b, o, p, khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 33; Điều 45 Bộ luật hình sự.

Áp dụng  Điều 42 Bộ luật Hình sự; Khoản 1, Điều 584; Điều 592 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 99; Điều 199 và Điều 222 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Khoản 1, Điều 23; Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, quy định về án phi, lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Thạch Thanh N 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/8/2017.

2. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Thạch Thanh N phải bồi thường thiệt hại cho người bị hại Thạch Thị Hạnh số tiền 10.000.000 đồng.

Tiếp tục quản lý số tiền 500.000 đồng mà đại diện gia đình bị cáo Thạch Thanh N đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Sóc Trăng để bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho người bị hại Thạch Thị H, để đảm bảo thi hành án (theo biên lai thu số 007008, ngày 14/11/2017).

3. Về án phí: Buộc bị cáo Thạch Thanh N phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là200.000 đồng và án phí dân sự sơ thẩm là 500.000 đồng.

4. Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo, người bị hại, đại diện hợp pháp của người bị hại, người bảo vệ quyền và lợi hợp pháp của người bị hại có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đối với những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

627
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2017/HSST ngày 14/11/2017 về tội giao cấu với trẻ em

Số hiệu:37/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về