Bản án 01/2018/HNGĐ-ST ngày 05/01/2018 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 01/2018/HNGĐ-ST NGÀY 05/01/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 05 tháng 01 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ĐH, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 174/2017/ TLST- HNGĐ ngày 11tháng 10 năm 2017 về tranh chấp về Hôn nhân gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2017/QĐXX - ST ngày 29 tháng 11 năm 2017 giữa các đương sự:

1.  Nguyên đơn: Chị  Nguyễn Thị Hoài T sinh năm 1988

Địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện ĐH, Thái Bình

2. Bị đơn: Anh Phạm Công H  sinh năm 1987

HKTT: Thôn Tây Thượng Liệt, xã Đ, huyện ĐH, Thái Bình

Hiện anh H đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện ĐH (Có mặt chị T, vắng mặt anh H)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn ngày 11/10/2017 và trong quá trình tố tụng chị Nguyễn Thị Hoài T trình bày:

Chị và anh H kết hôn vào ngày 26/11/2009 tại UBND xã Đ. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống bình thường không có mâu thuẫn lớn nhưng tuy đã chung sống được 08 năm vợ chồng vẫn không có con chung. Anh H thì đi làm không có tiền mang về lại còn chơi bời, gần đây lại lao vào nghiện ma túy, chị đã khuyên ngăn không được, chị thấy cuộc sống quá mệt mỏi. Thời gian chung sống có lần vợ chồng mâu Tẫn chị đã bỏ về nhà mẹ để sinh sống, sau anh H đến tìm chị về và hứa sửa chữa chị đã quay lại chung sống với anh nhưng anh không thay đổi. Tháng 10/2017 anh H lại bị bắt tạm giam đang chờ xét xử về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Xét  thấy tình cảm vợ chồng không còn chị xin được ly hôn anh H. Dù anh H có xin đoàn tụ chị cũng không chấp nhận.

Về con chung: Chị và anh H chưa có con chung. Hiện tại chị không có thai. Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 12/10/2017 anh Phạm Công H trình bày: Anh và chị T tự nguyện kết hôn tại xã Đ vào ngày 26/11/2009. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống ở Đ, trong cuộc sống vợ chồng thỉnh thoảng có xảy ra mâu Tẫn, nguyên nhân do kinh tế khó khăn, anh cũng chơi bời cờ bạc nên đi làm cũng không mang kinh tế về cho gia đình. Mặt khác do vợ chồng kết hôn đã lâu vẫn không có con chung nên cũng ảnh hưởng đến tình cảm của vợ chồng. Đầu năm 2017 vợ chồng mâu Tẫn, đã sống ly thân 01 tháng. Nay chị T xin ly hôn, anh bị tạm giam nên không thể đến Tòa tham gia phiên hòa giải được, anh đề nghị Tòa án khuyên bảo để  chị T rút đơn ly hôn, còn nếu chị T cố tình ly hôn anh cũng chấp nhận ly hôn. Anh đã đã nhận được thông báo thụ lý vụ án, các tài liệu mà chị T nộp theo đơn khởi kiện. Do anh đang bị tạm giam nên anh xin được vắng mặt tại tất cả các buổi làm việc mà Tòa án triệu tập, cũng như tại phiên tòa, đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt anh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị T có đơn yêu cầu giải quyết việc ly hôn  anh H tại Tòa án ĐH. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện ĐH. Anh H vắng mặt có đơn xin vắng mặt, mặc dù đã được Tòa án triệu tập H lệ do vậy căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án ĐH vẫn tiến hành xét xử vắng mặt anh H.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị T, anh H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân H pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống được 8 năm thì phát sinh mâu Tẫn, nguyên nhân do kinh tế khó khăn cùng với việc vợ chồng chậm sinh con nên tình cảm lạnh nhạt anh H chán nản dẫn đến chơi bời và  nghiện ma túy bị bắt tạm giam. Nay chị T xin ly hôn, anh H mặc dù không mong muốn nhưng cũng chấp nhận ly hôn. Xét thấy mâu Tẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do vậy cần chấp nhận nguyện vọng của chị T xử cho chị được ly hôn anh H là phù H với quy định của pháp luật.

[3] Về con chung, tài sản chung: Chị T và H chưa có con chung, không có tài sản chung nên không đặt ra giải quyết.

[4] Về án phí: Chị T là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự Khoản 2 Điều 227, Điều 146, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức án phí, lệ phí Tòa án; Khoản 1 Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình Tuyên xử.

1/ Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Hoài T ly hôn anh Phạm Công H

2/ Về con chung: Chưa có, không đặt ra giải quyết.

3/ Về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết.

4/ Về án phí: Chị T phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm. Chuyển số tiền chị T đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số 0007430 ngày 11/10/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện ĐH thành tiền án phí .

Án xử sơ thẩm công khai có mặt chị T, vắng mặt anh H. Báo cho các đương sự biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án với người có mặt, người vắng mặt có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được Tòa án tống đạt H lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2018/HNGĐ-ST ngày 05/01/2018 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:01/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hưng - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về