HIỆP ĐỊNH
GIỮA CHÍNH PHỦ CỦA NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
VÀ CHÍNH PHỦ CỦA MALAYSIA NHẰM TRÁNH ĐÁNH THUẾ HAI LẦN VÀ NGĂN CẢN TRỐN TRÁNH
NGHĨA VỤ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CÁC LOẠI THUẾ THU NHẬP
Chính
phủ của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và Chính phủ của Malaysia
Với mong muốn
ký kết một Hiêp định nhằm tránh đánh thuế hai lần và ngăn cản việc trốn tránh
nghĩa vụ tài chính đối với các loại thuế thu nhập.
Đã đồng ý như
sau:
Điều 1. Phạm vi chủ thể
Hiêp định này
áp dụng với những người là công dân của một hoặc cả hai nước ký kết
Điều 2.
Các khoản thuế được kiểm soát
1. Hiêp định này sẽ áp dụng đối
với các khoản thuế lên thu nhập bị đánh thuế bởi một nước ký kết, bất kể phương
thức đánh thuế
2. Các loại
thuế hiện có mà Hiêp định này sẽ áp dụng là:
a. Ở
Malaysia:
(i) Thuế thu
nhập; và
(ii) Thuế thu
nhập từ dầu mỏ
(sau đây gọi
tắt là Thuế của Malaysia).
b. Ở Việt Nam
(i) Thuế thu
nhập; và
(ii) Thuế lợi
tức; và
(iii) Thuế
doanh thu
(sau đây gọi
tắt là Thuế của Việt Nam)
3. Hiêp định
sẽ áp dụng đối với bất kỳ khoản thuế tương tự đáng kể hay đồng nhất nào mà được
đánh thuế bổ sung sau ngày ký của Hiêp định này; hoặc thay cho những loại thuế
hiện có. Các cơ quan có thẩm quyền của các nước ký kết sẽ thông báo cho nhau những
thay đổi quan trọng đã được thực hiện trong pháp luật thuế liên quan của mình.
Điều 3. Định nghĩa chung
1. Theo mục
đích của Hiêp định này, trừ khi ngữ cảnh đòi hỏi hiểu theo cách khác:
a. Thuật ngữ
“Malaysia” nghĩa là lãnh thổ của liên bang Malaysia, lãnh hải của Malaysia và
đáy biển, tầng đất dưới bề mặt của lãnh hải, và bao gồm bất kỳ khu vực nào mở rộng
phía trên giới hạn của lãnh hải của Malaysia, và phần đáy biển, tầng đất dưới bề
mặt của khu vực nào như vậy, phần đã là hoặc có thể từ nay trở đi đã được chỉ định
theo pháp luật của Malaysia phù hợp với luật quốc tế như là khu vực mà Malaysia
có quyền lợi tối cao trên đó cho mục đích thăm dò, khai thác các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, cho dù có sinh sống hay không sinh sống ở đó;
b. Thuật ngữ
“Việt Nam” nghĩa là nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; khi được sử dụng
trong khía cạnh địa lý, nó có nghĩa là tất cả lãnh thổ quốc gia, bao gồm lãnh hải
và bấy kỳ khu vực nào ở phía trên và sát cạnh lãnh hải, phần đã là hoặc có thể
từ nay trở đi đã được chỉ định theo pháp luật của Việt Nam phù hợp với luật quốc
tế như là đã rơi vào quyền lời tối cao của Việt Nam cho việc thăm dò, khai thác
các nguồn tài nguyên thiên nhiên
c. Các thuật
ngữ “một nước ký kết” và “nước ký kết khác” nghĩa là Việt Nam hoặc Malaysia
theo như ngữ cảnh đòi hỏi;
d. Thuật ngữ
“người” bao gồm cá nhân, công ty và một cơ quan bất kỳ của chủ thể được đối xử
như là một chủ thể cho các mục đích thuế;
e. Thuật ngữ
“Công ty” nghĩa là bất kỳ một cơ quan công ty nào hay một thực thể nào được đối
xử như là một công ty cho các mục đích thuế;
f. Thuật ngữ
“doanh nghiệp của nước ký kết” và “doanh nghiệp của nước ký kết khác” nghĩa là
một doanh nghiệp được tiến hành bởi công dân của một nước ký kết và doanh nghiệp
được tiến hành bởi công dân của một nước ký kết khác;
g. Thuật ngữ
“công dân quốc gia” nghĩa là:
(i) bất kỳ cá
nhân nào có quốc tịch hoặc tư cách công dân của nước ký kết;
(ii) bất kỳ
pháp nhân, hiệp hội đối tác nào và bất kỳ thực thể khác phát sinh tư cách như vậy
từ luật có hiệu lực tại nước ký kết;
h. Thuật ngữ
“giao thông quốc tế” nghĩa là sự vận chuyển bằng tàu hoặc máy bay hoạt động bởi
doanh nghiệp của nước ký kết, trừ khi tàu hoặc máy bay chỉ hoạt động giữa các địa
điểm trong nước ký kết khác;
i. Thuật ngữ
“cơ quan có thẩm quyền” nghĩa là:
(i) trong trường
hợp của Malaysia, là Bộ trưởng Tài chính hoặc người đại diện được ủy quyền; và
(ii) trong
trường hợp của Việt Nam, là Bộ trưởng Tài chính hoặc người đại diện được ủy quyền
j. Thuật ngữ
“thuế” nghĩa là thuế của Malaysia và thuế của Việt Nam, khi ngữ cảnh đòi hỏi.
2. Trong việc
áp dụng Hiêp định bởi nước ký kết, bất kỳ thuật ngữ nào không được định nghĩa ở
đây thì trừ khi ngữ cảnh đòi hỏi phải hiểu theo nghĩa khác, sẽ có nghĩa theo
pháp luật của nước ký kết về các loại thuế mà Hiêp định này áp dụng.
Điều 4. Cư dân
1. Với mục
đích của Hiêp định này, thuật ngữ “cư dân của nước ký kết” nghĩa là:
a. Trong trường
hợp của Malaysia, là người cư trú ở Malaysia đối với những mục đích về thuế của
Malaysia; và
b. Trong trường
hợp của Việt Nam, là người cư trú ở Việt Nam đối với những mục đích về thuế của
Việt Nam;
2. Khi theo
lý do của những quy định ở đoạn 1, một cá nhận là cư dân của cả hai nước ký kết,
tư cách của người này sẽ được xác định như sau:
a. Anh ta sẽ
được coi là cư dân của nước mà anh ta có nhà ở thường trú; nếu anh ta có nhà ở
thường trú ở cả hai nước, anh ta sẽ được coi là cư dân của nước mà các quan hệ
về kinh tế và cá nhân của anh ta gần hơn (trung tâm các quyền lợi chủ yếu);
b. nếu không
thể xác định được nước ký kết nơi một người có trung tâm các quyền lợi chủ yếu
của anh ta, hoặc nếu anh ta không có nhà ở trường trú ở nước nào, anh ta sẽ được
coi là cư dân của nước mà anh ta có nơi ở theo thói quen;
c. nếu một
người có nơi ở theo thói quen tại cả hai nước hoặc không nước nào trong cả hai
nước, anh ta sẽ được coi là cư dân của nước mà anh ta là công dân quốc gia;
d. nếu anh ta
là công dân quốc gia của cả hai nước hoặc không nước nào trong cả hai nước, cơ
quan có thẩm quyền của hai nước sẽ giải quyết vấn đề bằng thỏa thuận chung.
3. Khi mà
theo lý do của những quy định ở đoạn 1, một người khác hơn là một cá nhân là cư
dân của cả hai nước ký kết, sau đó được coi là cư dân của nước nơi mà nằm trong
vị trí quản lý có hiệu lực của nước đó.
Điều 5. Cơ sở thường trú
1. Cho mục
đích của Hiêp định này, thuật ngữ “cơ sở thường trú” nghĩa là một nơi kinh
doanh cố định mà thông qua đó việc kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành
toàn bộ hoặc một phần
2. Thuật ngữ
“cơ sở thường trú”cụ thể bao gồm:
a. nơi quản
lý;
b. chi nhánh
c. văn phòng
d. nhà máy
e. tiệm
f. mỏ, giếng
dầu hay khí, mỏ đá hay bất kỳ nơi nào khác khai thác nguồn tài nguyên thiên
nhiên, bao gồm gỗ hoặc các lâm sản khác; và
g. nông trai
hay nông trang
3. Một công trình xây dựng, dự án về lắp đặt hay lắp ráp quy định
là cơ sở thường trú chỉ khi nó tồn tại hơn 6 tháng.
4. Mặc dù có
những quy định trước của điều này, thuật ngữ “cơ sở thường trú” sẽ được coi là
không bao gồm:
a. việc sử dụng
của các cơ sở duy nhất cho mục đích lưu trữ, trưng bày hay giao hàng hóa của
doanh nghiệp;
b. việc duy
trì của cổ phiếu hàng hóa thuộc doanh nghiệp chỉ cho mục đích lưu trữ, trưng
bày hay giao hàng hóa;
c. việc duy
trì của cổ phiếu hàng hóa thuộc doanh nghiệp chỉ cho mục đích gia công bởi
doanh nghiệp khác;
d. việc duy
trì của nơi kinh doanh cố định chỉ cho mục đích mua bán hàng hóa hoặc thu thập
thông tin cho doanh nghiệp;
e. việc duy
trì của nơi kinh doanh cố định chỉ cho mục đích tiến hành cho doanh nghiệp bất
kỳ hoạt động nào khác có tính chất chuẩn bị hoặc phụ trợ;
f. việc duy
trì của nơi kinh doanh cố định chỉ cho bất kỳ sự kết hợp nào của các hoạt động
nêu ở tiểu đoạn (a.) đến (e.), được quy định rằng toàn bộ hoạt động của địa điểm
kinh doanh cố định là kết quả từ sự kết hợp thì là của cơ sở có tính chất chuẩn
bị hoặc phụ trợ.
5. Doanh nghiệp
của nước ký kết, sẽ được coi là có cơ sở thường trú tại
nước ký kết khác nếu nó tiến hành những hoạt động giám sát tại nước khác đó nhiều
hơn 6 tháng trong sự kết nối với công trình, dự án xây dựng, lắp đặt, lắp ráp
mà nó đang đảm nhận tại nước khác đó.
6. Một người
(trừ người môi giới, đại lý hoa hồng hay đại lý khác bất kỳ có tư cách độc lập
là những người áp dụng theo đoạn 7) hoạt động tại nước ký kết thay mặt doanh
nghiệp của nước ký kết khác sẽ được coi là cơ sở thường trú ở nước được nêu đầu
tiên, nếu:
a. Anh ta có
và thực hiện theo thói quen ở nước được nêu đầu tiên thẩm quyền để ký kết hợp đồng
bằng tên của doanh nghiệp, trừ khi những hoạt động của anh ta bị giới hạn với
việc mua bán hàng hóa cho doanh nghiệp;
b. Anh ta duy
trì ở nước được nêu đầu tiên một cổ phiếu hàng hóa thuộc doanh nghiệp với hình
thức điền các đơn hàng thay mặt doanh nghiệp; hoặc
c. Anh ta sản
xuất hoặc gia công ở nước được nêu đầu tiên cho hàng hóa của doanh nghiệp
7. Một doanh
nghiệp sẽ không được coi là có cơ sở thường trú ở nước ký kết chỉ vì nó tiến
hành kinh doanh ở nước đó thông qua người môi giới, đại lý hoa hồng hay đại lý
khác bất kỳ có tư cách độc lập, khi những người này hoạt động trong quá trình
kinh doanh của họ một cách bình thường. Tuy nhiên, khi các hoạt động của một đại
lý như vậy được dành cho toàn bộ hoặc hầu như toàn bộ thay cho doanh nghiệp đó,
anh ta sẽ được xem như là một đại lý có tư cách độc lập nếu các giao dịch giữa
đại lý và doanh nghiệp không thực hiện theo những điều kiện ngang bằng.
8. Sự thật là
một công ty mà cư dân của nước ký kết kiểm soát hoặc được kiểm soát bởi công ty
mà nó là cư dân của nước ký kết khác, hoặc công ty mà tiến hành kinh doanh ở nước
khác đó (khi thông qua một cơ sở thường trú hoặc phương diện khác), sẽ cũng
không tự nó thiết lập cơ sở thường trú công ty của nước khác.
Điều 6. Thu nhập từ bất động sản
1 Thu nhập của
người cư trú của nước ký kết từ bất động sản được quy đinh trong nước ký kết
khác có thể chịu thuế ở nước khác đó.
2. Cho mục
đích của Hiêp định này, thuật ngữ “bất động sản” sẽ có ý nghĩa theo luật của nước
ký kết mà trong đó tài sản ở câu hỏi được quy định. Thuật ngữ này trong trường
hợp bất kỳ sẽ bao gồm tài sản phụ kiện của bất động sản, gia súc và thiết bị được
sử dụng trong nông nghiệp và lâm nghiệp, các quyền mà các quy định của luật
chung về điền sản áp dụng, hoa lợi từ bất động sản và các quyền đối với việc
thanh toán có tính thay đổi hoặc cố định theo như sự xem xét với công việc, hoặc
quyền làm việc, lớp trầm tích của khoáng sản, giếng dầu hoặc khí, mỏ đá và những
nơi khai thác tài nguyên thiên nhiên khác bao gồm gỗ và lâm sản; tàu, thuyền và
máy bay không được coi là bất động sản.
3. Các quy định
của đoạn 1 áp dụng đối với thu nhập từ sử dụng trực tiếp, cho phép hoặc sử dụng
bằng hình thức bất kỳ nào khác đối với bất động sản.
4. Các quy định
của đoạn 1 và 3 cũng áp dụng đối với thu nhập từ bất động sản được sử dụng cho
việc thực hiện các dịch vụ cá nhân độc lập.
Điều 7. Lợi nhuận từ kinh doanh
1. Lợi nhuận
của doanh nghiệp của nước ký kết chỉ bị đánh thuế ở nước đó trừ khi doanh nghiệp
tiến hành kinh doanh ở nước ký kết khác thông qua cơ sở thường trú đã quy định.
Nếu doanh nghiệp tiến hành kinh doanh như nêu trên thì các lợi nhuận của doanh
nghiệp có thể bị đánh thuế ở nước khác; nhưng chỉ đánh thuế trên nhiều lợi nhuận
từ đó mà có thể quy cho cơ sở thường trú.
2. Theo các
quy định ở đoạn 3, khi doanh nghiệp của nước ký kết tiến hành kinh doanh ở nước
ký kết khác thông qua cơ sở thường trú đã quy định, mỗi nước ký kết sẽ phân bổ
cho cơ sở thường trú các lợi nhuận mà nó có thể dự định thực hiện nếu nó là một
doanh nghiệp riêng biệt và cụ thể đã tham gia vào cùng các hoạt động hay tương
tự theo cùng những điều kiện hoặc tương tự và giao dịch hoàn toàn độc lập với
doanh nghiệp mà nó là cơ sở thường trú.
3. Trong việc
xác định lợi nhuận của cơ sở thường trú, sẽ được phép khấu trừ những chi phí
bao gồm chi phí điều hành và hành chính chung, cái mà sẽ được khấu trừ nếu cơ sở
thường trú là doanh nghiệp độc lập, trong một chừng mực mà chúng được phân bổ một
cách hợp lý cho cơ sở thường trú, cho dù được phát sinh trong nước nơi có cơ sở
thường trú hoặc nơi khác.
4. Nếu thông
tin sẵn có cho cơ quan có thẩm quyền không đủ để xác định lợi nhuận được phân bổ
đối với cơ sở thường trú của doanh nghiệp, không có điều gì trong điều này sẽ ảnh
hưởng đến sự áp dụng luật bất kỳ của nước đó liên quan đến việc xác định nghĩa
vụ thuế của một người bằng việc cơ quan có thẩm quyền thực hiện sự định đoạt hoặc
làm ước tính, cơ quan có thẩm quyền quy định pháp luật áp dụng cho đến khi
thông tin sẵn có được cơ quan có thẩm quyền thừa nhận theo nguyên tắc của điều
này.
5. Không có lợi
nhuận nào được phân bổ cho cơ sở thường trú chỉ từ việc mua bán hàng hóa của cơ
sở thường trú đó cho doanh nghiệp.
6. Vì mục
đích của các đoạn trước, lợi nhuận được phân bổ cho cơ sở thường trú sẽ được
xác định cùng phương pháp theo thời gian, trừ khi có lý do tốt và đầy đủ ngược
lại.
7. Khi lợi nhuận
bao gồm các khoản thu nhập được giao dịch tách biệt với các điều khoản khác của
Hiêp định này, những quy định của các điều khoản đó sẽ không bị các quy định của
điều này ảnh hưởng.
Điều 8.
Vận tải đường hàng không và đường tàu biển
1. Các lợi nhuận từ hoạt động
tàu biển hoặc máy bay trong giao thông quốc tế của doanh nghiệp nước ký kết sẽ
chỉ bị đánh thuế ở nước ký kết đó.
2. Các quy định của đoạn 1 cũng
sẽ áp dụng đối với lợi nhuận từ việc tham gia vào kinh doanh tổ hợp, liên doanh
hay đại lý hoạt động quốc tế.
Điều 9.
Các doanh nghiệp liên kết
Khi mà
a. Doanh nghiệp của một nước ký
kết tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc quản lý, kiểm soát hoặc bò vốn
vào doanh nghiệp ở nước ký kết khác, hoặc
b. Những người giống nhau
thamgia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc quản lý, kiểm soát hoặc bỏ vốn vào
doanh nghiệp ở nước ký kết và doanh nghiệp ở nước ký kết khác,
và cả trong trường hợp các điều
kiện được thực hiện hoặc được áp đặt giữa hai doanh nghiệp trong quan hệ thương
mại hoặc tài chính mà khác so với những quan hệ được thực hiện giữa các doanh
nghiệp độc lập, thì mọi lợi nhuận sau đó, nhưng đối với những điều kiện đó, sẽ
dồn về một trong các doanh nghiệp, tuy nhiên, bằng lý do của các điều kiện đó,
sẽ không dồn về mà có thể bao gồm trong lợi nhuận của doanh nghiệp đó và bị
đánh thuế phù hợp
Điều 10. Tiền lãi cổ phần
1. Tiền lãi cổ
phần được công ty là cư dân của nước ký kết trả cho cư dân của nước ký kết khác
có thể bị đánh thuế tại nước khác đó.
2. Tuy nhiên,
khoản tiền lãi cổ phần như vậy có thể cũng bị đánh thuế tại nước ký kết nơi
công ty trả lãi là cư dân theo luật của nước đó, nhưng nếu người nhận cổ tức là
chủ sở hữu hưởng lợi từ tiền lãi cổ phần thì thuế phải chịu sẽ không quá 10% của
tổng số tiền lãi cổ phần
Đoạn này sẽ
không ảnh hưởng số thuế phải đóng của công ty ứng với lợi nhuận tạo ra được đem
chia lãi.
3. Tiền lãi cổ
phần được công ty là cư dân của Malaysia trả cho cư dân của Việt Nam là người
chủ hưởng lợi từ đó sẽ được miễn thuế ở Malaysia, đây là tiền lãi đã chịu phí
trên lãi cổ phần được cộng vào tiền thuế chịu phí đối với thu nhập của công ty.
Quy định trong đoạn này sẽ không ảnh hướng đến những quy định của pháp luật
Malaysia mà theo đó thuế đối với tiền lãi cổ phần được công ty là cư dân của
Malaysia trả từ phần mà thuế của Malaysia đã hoặc được coi là đã được khấu trừ,
và có thể được điều chỉnh bằng cách tham khảo mức thuế phù hợp với năm đánh giá
của Malaysia tiếp theo ngay lập tức với tiền lãi cổ tức đã trả.
4. Thuật ngữ
“tiền lãi cổ phần” như được sử dụng trong điều này nghĩa là thu nhập từ cổ phần,
cổ phần của công ty khai thác, cổ phần của người sáng lập hoặc các quyền khác,
không là quyền đòi nợ, quyền tham gia vào lợi nhuận, cũng như thu nhập từ các
quyền công ty khác là đối tượng cùng một hệ thống xử lý thuế như thu nhập từ cổ
phần theo pháp luật của nước nơi mà công ty phân phối là cư dân.
5. Các quy định
của đoạn 1 và 2 sẽ không được áp dụng nếu chủ sở hữu hưởng tiền lãi cổ phần là
cư dân của nước ký kết, tiến hành kinh doanh ở nước ký kết khác, mà công ty trả
tiền lãi cổ phần của họ là cư dân, thông qua cơ sở thường trú, hoặc thực hiện tại
nước khác cơ sở riêng độc lập được quy định, hoặc thực hiện tại nước khác các dịch
vụ cá nhân độc lập và việc nắm giữ tiền lãi cổ phần được trả được kết nối hiệu
lực với cơ sở thường trú như vậy hoặc các dịch vụ như vậy. Trong trường hợp này
có thể sẽ áp dụng các quy định của điều 17 và điều 15.
6. Khi một
công ty là cư dân của nước ký kết có lợi nhuận hoặc thu nhập từ nước ký kết
khác, thì nước khác có thể không áp đặt bất kỳ khoản thuế nào lên tiền lãi cổ
phần được Công ty trả, trừ khi trong chừng mực mà việc nắm giữ tiền lãi cổ phần
được trả được kết nối hiệu lực với cơ sở thường trú được có ở nước khác đó,
cũng không là đối tượng chịu thuế cho các lợi nhuận chưa được phân phối của
công ty để tính thuế trên đó, ngay cả nếu tiền lãi cổ phần được trả hoặc lợi
nhuận chưa được phân phối bao gồm toàn bộ hoặc một phần lợi nhuận hoặc thu nhập
phát sinh tại nước khác.
Điều 11. Tiền lãi
1. Tiền lãi
phát sinh tại nước ký kết và được trả cho cư dân của nước ký kết khác có thể chịu
thuế tại nước khác.
2. Tuy nhiên,
tiền lãi như vậy cũng có thể bị đánh thuế tại nước ký kết nơi phát sinh, và
theo luật của nước đó, nhưng nếu người nhận là chủ sở hữu hưởng lợi của tiền
lãi, thì thuế phải chịu sẽ không quá 10% tổng số tiền lãi
3. Bất kể các
quy định của các đoạn 1 và 2, Chính phủ của nước ký kết sẽ được miễn thuế tại
nước ký kết khác đối với tiền lãi mà Chính phủ có được từ nước khác.
4. Với các mục
đích của đoạn 3, thuật ngữ “Chính phủ” là:
a. Trong trường
hợp của Malaysia nghĩa là Chính phủ của Malaysia bao gồm:
(i) Các chính
quyền của các bang;
(ii) Các cơ
quan thẩm quyền địa phương;
(iii) Ngân
hàng nhà nước của Malaysia; và
(vi) Các cơ
quan, đơn vị có vốn thuộc sở hữu toàn bộ của Chính phủ Malaysia hoặc của chính
quyền của các bang, hoặc của cơ quan thẩm quyền địa phương, cũng như có thể được
thỏa thuận theo thời gian giữa các cơ quan có thẩm quyền của các nước ký kết.
b. Trong trường
hợp của Việt Nam nghĩa là Chính phủ của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
bao gồm:
(i) Các cơ
quan thẩm quyền địa phương;
(ii) Ngân
hàng nhà nước của Việt Nam; và
(iii) Các cơ
quan, đơn vị có vốn thuộc sở hữu toàn bộ của Chính phủ Việt Nam hoặc của cơ
quan thẩm quyền địa phương, cũng như có thể được thỏa thuận theo thời gian giữa
các cơ quan có thẩm quyền của các nước ký kết.
5. Thuật ngữ “tiền lại” như được
sử dụng ở điều này có nghĩa là thu nhập từ các khoản nợ ở bất cứ kiểu nào, có
hoặc không có bảo đảm bằng thế chấp, và có hoặc không có thực hiện quyền để
tham gia vào lợi nhuận của người nợ, và, đặc biệt, thu nhập từ chứng khoán
chính phủ và thu nhập từ trái phiếu hay công trái.
6. Các quy định
của đoạn 1 và 2 sẽ không áp dụng nếu chủ sở hữu hưởng lợi tiền lãi là cư dân của
nước ký kết tiến hành kinh doanh ở nước ký kết khác mà phát sinh lợi nhuận,
thông qua cơ sở thường trú hoặc tiến hành ở nước khác các dịch vụ cá nhân độc lập
và nợ của tiền lãi được trả thì có kết nối có hiệu lực với cơ sở thường trú như
vậy hoặc các dịch vụ như vậy. Trong trường hợp này có thể sẽ áp dụng các quy định
của điều 7 hoặc điều 15
7. Tiền lãi
được coi là phát sinh tại nước ký kết khi mà người trả là chính nước đó, phân
khu chính trị, cơ quan quyền lực địa phương hoặc cư dân của nước đó. Tuy nhiên
khi người trả tiền lãi là hoặc không là cư dân của nước ký kết có ở nước ký kết
cơ sở thường trú kết nối với các khoản nợ đã phát sinh lãi, và cơ sở thường trú
như vậy chịu tiền lãi thì những tiền lãi này sẽ được coi là phát sinh ở nước
nơi mà có cơ sở thường trú.
8. Bởi quan hệ
đặc biệt giữa người trả và chủ sở hữu hưởng lợi hoặc giữa cả hai và một số người
khác, khi mà số tiền lãi được trả liên quan đến nợ phải trả vượt quá số tiền đã
được người trả và chủ sở hữu hưởng lợi thỏa thuận trong trường hợp không có
quan hệ như vậy, sẽ áp dụng các quy định của điều này chỉ với số tiền được đề cập
cuối cùng. Trong trường hợp như vậy, phần thanh toán vượt quá sẽ vẫn chịu thuế
theo pháp luật của mỗi nước ký kết, quan tâm đúng đã có đối với các quy định
khác của Hiêp định này.
Điều 12. Nhuận bút
1. Nhuận bút
phát sinh tại nước ký kết và được trả cho cư dân của nước ký kết khác có thể bị
đánh thuế bởi nước khác.
2. Tuy nhiên, các khoản nhuận bút như vậy cũng có thể bị đánh
thuế ở nước ký kết nơi chúng phát sinh và theo pháp luật của nước ký kết đó,
nhưng nếu người nhận là chủ sở hữu hưởng lợi nhuận bút thì thuế phải chịu sẽ
không vượt quá 10% của tổng số nhuận bút.
3. Thuật ngữ
“nhuận bút” như được sử dụng trong điều này có nghĩa là số thanh toán nhận được
dưới bất kỳ loại nào để xem xét cho việc sử dụng, quyền sử dụng, bản quyền bất
kỳ của tác phẩm, công trình văn học, nghệ thuật hay khoa học bao gồm phim điện ảnh,
phim hoặc băng dùng cho đài phát thanh hoặc truyền hình, bằng sáng chế bất kỳ,
thương hiệu, kiểu mẫu hay thiết kế, dự án, công thức hay quy trình bí mật, hoặc
cho việc sử dụng, hoặc quyền sử dụng thiết bị công nghiệp, thương mại hoặc khoa
học, hoặc cho thông tin về kinh nghiệm có tính công nghiệp, thương mại hoặc
khoa học.
4. Các quy định
của đoạn 1 và 2 sẽ không áp dụng nếu chủ sở hữu hưởng lợi nhuận bút là cư dân của
nước ký kết tiến hành kinh doanh ở nước ký kết khác phát sinh nhuận bút thông
qua cơ sở thường trú có ở đó, hoặc thực hiện tại nước khác các dịch vụ cá nhân
độc lập và quyền hay tài sản liên quan nhuận bút được trả được kết nối có hiệu
lực với cơ sở thường trú như vậy hoặc các dịch vụ như vậy. Trong trường hợp này
có thể sẽ áp dụng các quy định của điều 7 và điều 15.
5. Nhuận bút
sẽ được coi là phát sinh tại nước ký kết khi người trả là chính nước đó, phân
khu chính trị, cơ quan quyền lực địa phương, hay cư dân của nước đó. Tuy nhiên
khi mà người trả nhuận bút là hoặc không là cư dân của nước ký kết có ở nước ký
kết một cơ sở thường trú kết nối với nghĩa vụ trả nhuận bút đã phát sinh, và cơ
sở thường trú như vậy chịu các nhuận bút đó thì các nhuận bút này sẽ được coi
là phát sinh ở nước nơi có cơ sở thường trú.
6. Bởi quan hệ
đặc biệt giữa người trả và chủ sở hữu hưởng lợi hoặc giữa cả hai và một số người
khác, khi mà tiền nhuận bút được trả liên quan đến việc sử dung, quyền hoặc
thông tin mà phải trả vượt quá số tiền đã được người trả và chủ sở hữu hưởng lợi
thỏa thuận trong trường hợp không có quan hệ như vậy, sẽ áp dụng các quy định của
điều này chỉ với số tiền được đề cập cuối cùng. Trong trường hợp như vậy, phần
thanh toán vượt quá sẽ vẫn chịu thuế theo pháp luật của mỗi nước ký kết, quan
tâm đúng đã có đối với các quy định khác của Hiêp định này.
Điều 13. Phí công nghệ
1. Phí công
nghệ phát sinh tại một trong các nước ký kết do cư dân của nước ký kết khác là
chủ sở hữu hưởng lợi và là đối tượng chịu thuế ở nước khác có thể bị đánh thuế ở
nước ký kết được nêu đầu tiên với mức thuế suất không quá 10% tổng số phí kỹ
thuật.
2. Thuật ngữ
“Phí công nghệ” như sử dụng trong điều này nghĩa là khoản trả của bất kỳ loại
nào cho người bất kỳ, trừ người lao động của người trả phí, trong sự xem xét với
các dịch vụ bất kỳ có tính chất công nghệ, quản lý hay tư vấn.
3. Các quy định
của đoạn 2 điều này sẽ không áp dụng nếu chủ sở hữu hưởng lợi phí công nghệ là
cư dân của nước ký kết tiến hành kinh doanh ở nước ký kết khác nơi mà phí công
nghệ phát sinh có cơ sở thường trú hoặc tiến hành ở nước khác các dịch vụ cá
nhân độc lập, thì phí công nghệ được kết nối có hiệu lực với cơ sở thường trú
như vậy hoặc dịch vụ như vậy. Trong trường hợp này, có thể sẽ áp dụng các quy định
của được 7 hoặc điều 15.
4. Phí công
nghệ sẽ được coi là phát sinh ở nước ký kết khi người trả là chính nước đó,
phân khu chính trị, cơ quan quyền lực địa phương, hoặc cư dân của nước đó. Tuy
nhiên khi mà người trả phí công nghệ là hoặc không là cư dân của nước ký kết có
ở nước ký kết một cơ sở thường trú kết nối với nghĩa vụ trả phí công nghệ đã
phát sinh, và cơ sở thường trú như vậy chịu các phí công nghệ đó thì các phí
công nghệ này sẽ được coi là phát sinh ở nước ký kết nơi có cơ sở thường trú.
5. Bởi quan hệ
đặc biệt giữa người trả và chủ sở hữu hưởng lợi hoặc giữa cả hai và một số người
khác, khi mà phí công nghệ được trả vượt quá, vì bất kể lý do gì, số tiền đã được
người trả và chủ sở hữu hưởng lợi thỏa thuận trong trường hợp không có quan hệ
như vậy, sẽ áp dụng các quy định của điều này chỉ với số tiền được đề cập cuối
cùng. Trong trường hợp như vậy, phần thanh toán vượt quá sẽ vẫn chịu thuế theo
pháp luật của mỗi nước ký kết, quan tâm đúng đã có đối với các quy định khác của
Hiêp định này.
Điều 14. Các thu nhập từ chuyển nhượng tài sản
1. Thu nhập
phát sinh bởi cư dân của nước ký kết từ chuyển nhượng bất động sản được tham
chiếu theo điều 6 và ở nước ký kết khác nào thì bị nước khác đó đánh thuế
2. Thu nhập từ
chuyển nhượng động sản hình thành một phần tài sản kinh doanh của cơ sở thường
trú mà doanh nghiệp của nước ký kết có ở nước ký kết khác hoặc của động sản mà
cư dân của nước ký kết có ở nước ký kết khác cho mục đích thực hiện các dịch vụ
cá nhân độc lập, bao gồm các thu nhập từ chuyển nhượng cơ sở thường trú (một
mình hoặc cùng với toàn bộ doanh nghiệp) có thể bị đánh thuế ở nước khác.
3. Thu nhập
phát sinh bởi doanh nghiệp của nước ký kết từ chuyển nhượng tàu thủy, máy bay
hoạt động trong giao thông quốc tế, hoặc động sản liên quan đến hoạt động của
tàu bay và máy bay sẽ chỉ bị đánh thuế ở nước đó.
4. Thu nhập từ
chuyển nhượng cổ phần của công ty, tài sản bao gồm toàn bộ hay phần lớn bất động
sản có ở nước ký kết có thể bị đánh thuế ở nước đó
5. Thu nhập từ
chuyển nhượng bất kỳ sản phẩm nào trừ các để nêu ở đoạn 1, 2, 3 và 4 sẽ bị đánh
thuế ở nước nơi mà người chuyển nhượng là cư dân.
Điều 15. Các dịch vụ cá nhân độc lập
1. Thu nhập phát
sinh bởi cư dân của nước ký kết về các dịch vụ nghề nghiệp hoặc các hoạt động độc
lập khác có đặc điểm tương tự sẽ chỉ bị đánh thuế ở nước đó. Tuy nhiên, trong
những tình huống sau đây thì thu nhập này sẽ có thể bị đánh thuế ở nước ký kết
khác:
a. Nếu việc ở
lại nước khác của cá nhân là một khoảng thời gian hoặc tổng số các khoảng thời
gian vượt quá gộp lại 183 ngày của năm tài chính liên quan; hoặc
b. Nếu tiền
công cho dịch vụ ở nước khác cũng được phát sinh từ các cư dân của nước đó hoặc
chịu bởi cơ sở thường trú mà người không phải là cư dân ở nước đó có, trong trường
hợp vượt quá 10.000 USD trong năm dương lịch, bất kể việc ở lại nước đó của anh
ta là một khoảng thời gian hoặc tổng số các khoảng thời gian ít hơn 183 ngày
trong năm tài chính đó.
2. Thuật ngữ “dịch vụ nghề nghiệp”
bao gồm các hoạt động khoa học, văn học, nghệ thuật, giáo dục và dạy học độc lập
riêng biệt cũng như các hoạt động độc lập của các nhà vật lý, luật sư, kỹ sư,
kiến trúc sư, nha sĩ và kế toán.
Điều 16. Các dịch vụ cá nhân phụ thuộc
1. Theo các
quy định tại điều 17, 19, 20 và 21, lương, tiền công và các khoản thù lao tương
tự khác được phát sinh bởi cư dân của nước ký kết liên quan đến việc làm sẽ chỉ
bị đánh thuế ở nước đó trù khi việc làm thuê được thực hiện ở nước ký kết khác.
Nếu việc làm thuê như vậy được thực hiện thì tiền công như vậy được phát sinh
có thể bị đánh thuế ở nước khác.
2. Bất kể các
quy định của đoạn 1, tiền công phát sinh bởi cư dân của nước ký kết đối với
công việc được thực hiện tại nước ký kết khác sẽ chỉ bị đánh thuế ở nước được
nêu đầu tiên, nếu:
a. Người nhận
hiện diện ở nước khác cho một khoảng thời gian hoặc các khoảng thời gian không
quá khi gộp lại là 183 ngày trong năm tài chính, và
b. Cư dân hay
cơ sở thường trú mà người sử dụng lao động có ở nước khác phải chịu tiền công
3. Bất kể các
quy định trên của điều này, tiền công phát sinh đối với công việc thực hiện
trên tàu hoặc máy bay hoạt động giao thông quốc tê bởi doanh nghiệp của nước ký
kết có thể chỉ bị đánh thuế ở nước đó.
Điều 17. Phí quản lý
Phí quản lý
và các khoản thanh toán tương tự khác phát sinh bởi cư dân của nước ký kết theo
tư cách của người này là thành viên của hội đồng quản trị công ty là cư dân của
nước ký kết khác có thể bị đánh thuế ở nước khác
Điều 18. Các
nghệ sĩ và nhà thể thao
1. Bất kể các quy định của Điều
15 và 16, thu nhập phát sinh bởi cư dân của nước ký kết là các người làm giải
trí như là nghệ sĩ, hoặc nhạc sĩ của rạp hát, phim điện ảnh, đài truyền hình,
phát thanh, hoặc là nhà thể thao, từ các hoạt động của người này được thực hiện
tại nước ký kết khác, có thể bị đánh thuế ở nước khác.
2. Nếu thu nhập đối với các hoạt
động các nhân được thực hiện bởi người làm giải trí hoặc nhà thể thao bằng tư
cách của người này như khi tính dồn không cho người làm giải trí hay chính nhà
thể thao mà cho người khác thì thu nhập đó bất kể các quy định của điều 7, 15
và 10 có thể bị đánh thuế ở nước ký kết nơi thực hiện các hoạt động của người
làm giải trí hoặc nhà thể thao
3. Các quy định
của đoạn 1 và 2 sẽ không áp dụng với tiền công hoặc lợi nhuận phát sinh từ các
hoạt động được thực hiện ở nước ký kết nếu chuyến thăm đến nước đó được quỹ
công của nước ký kết khác hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp, toàn bộ hay phần lớn.
Điều 19. Lương hưu
Theo các quy
định ở đoạn 2 của điều 20, lương hưu và các khoản tiền công tương tự khác được
trả cho cư dân của nước ký kết trong việc xem xét công việc đã qua sẽ chỉ bị
đánh thuế ở nước đó.
Điều 20. Dịch vụ của chính phủ
1.a. Tiền
công, trừ lương hưu, được trả bởi nước ký kết hoặc phân khu chính trị hoặc cơ
quan quyền lực địa phương cho cá nhân đối với các dịch vụ được làm cho nước hoặc
phân khu, cơ quan có thẩm quyền đó sẽ chỉ bị đánh thuế ở nước đó.
b. Tuy nhiên,
tiền công như vậy sẽ chỉ bị đánh thuế ở nước ký kết khác nếu dịch vụ được làm ở
nước đó và cá nhân là cư dân của nước đó người mà:
(i) là công
dân quốc gia của nước đó; hoặc
(ii) đã không
trở thành công dân của nước đó duy nhất cho mục đích của việc làm các dịch vụ
2. Bất kỳ
lương hưu nào được trả, hoặc nằm ngoài các quỹ tạo bởi nước ký kết hoặc phân
khu chính trị hoặc cơ quan quyền lực địa phương cho cá nhân đối với các dịch vụ
đã làm cho nhà nước, phân khu chính trị hoặc cơ quan quyền lực địa phương sẽ chỉ
bị đánh thuế ở nước đó.
3. Các quy định
của điều 16, 17 và 19 sẽ áp dụng đối với tiền công hoặc lương hưu liên quan các
dịch vụ được làm kết nối với việc kinh doanh được tiến hành bởi nước ký kết hoặc
phân khu chính trị hoặc cơ quan quyền lực địa phương.
4. Các cá
nhân thực hiện dịch vụ chính phủ trong điều này sẽ bao gồm cá nhân thực hiện chức
năng của chính phủ, và cũng bao gồm cá nhân làm việc trong cơ quan nhà nước đã
được thỏa thuận theo thời gian giữa các cơ quan có thẩm quyền của nước ký kết.
Điều 21.
Sinh viên và thực tập sinh
Cá nhân là cư
dân của nước ký kết ngay trước khi đến thăm nước ký kết khác và chỉ hiện diện tạm
thời ở nước khác:
a. như là
sinh viên tại trường đại học, cao đẳng, trung học được công nhận hoặc các tổ chức
giáo dục tương tự khác đã được công nhận ở nước khác;
b. như là
doanh nhân hoặc tập sự kỹ thuật;
c. như là người
nhận trợ cấp, phụ cấp hoặc giải thưởng cho mục đích chính là học tập, nghiên cứu
hoặc đào tạo từ Chính phủ của nhà nước hoặc từ tổ chức khoa học, giáo dục, tôn
giáo hay từ thiện hoặc theo chương trình hỗ trợ công nghệ đưa vào bởi Chính phủ
của cả hay nước,
sẽ được miễn
thuế ở nước khác đó đối với:
(i) tất cả kiều
hối từ nước ngoài cho mục đích cấp dưỡng, giáo dục, học tập, nghiên cứu hoặc
đào tạo của người nhận;
(ii) số tiền
từ trợ cấp, phụ cấp hoặc giải thưởng; và
(iii) thù lao
bất kỳ không vượt quá 2.500 USD mỗi năm liên quan đến dịch vụ mà nước khác quy
định được thực hiện trong việc kết nội với việc học tập, nghiên cứu hay đào tạo
của người này hoặc là cần thiết cho mục đích cấp dưỡng người này
Điều 22.
Giáo sư, giáo viên và nhà nghiên cứu
1. Cá nhân là
cư dân của nước ký kết ngay trước khi đến thăm nước ký kết khác, và người mà
theo lời mời của trường đại học, cao đẳng hay tổ chức giáo dục tương tự khác bất
kỳ đã được cơ quan có thẩm quyền của nước ký kết công nhận, đi thăm nước khác
cho khoảng thời gian không vượt quá 2 năm chỉ cho mục đích dạy học hay nghiên cứu
hay cả hai tại cơ sở giáo dục sẽ được miễn thuế ở nước khác đối với mọi khoản
thù lao cho việc dạy học hay nghiên cứu như vậy, cái mà là đối tượng chịu thuế
tại nước ký kết được nêu đầu tiên
2. Điều này sẽ
chỉ áp dụng cho thu nhập từ nghiên cứu nếu việc nghiên cứu này được thực hiện
chủ yếu cho lợi ích riêng của một người cụ thể hoặc nhiều người.
Điều 23. Thu nhập khác
Các khoản thu
nhập của cư dân nước ký kết mà không được nêu rõ ở các điều luật đã nói ở trên
của Hiêp định này sẽ chỉ bị đánh thuế ở nhà nước đó trừ khi những thu nhập như
vậy phát sinh từ các nguồn tại nước ký kết khác thì có thể cũng bị đánh thuế ở
nước khác.
Điều 24. Loại bỏ việc đánh thuế hai lần
1. Pháp luật
có hiệu lực ở cả hai nước ký kết sẽ tiếp tục điều chỉnh hệ thống thuế thu nhập
liên quan các nước ký kết trừ khi có một quy định rõ ràng ngược lại được làm
trong Hiêp định này. Nếu thu nhập là đối tượng chịu thuế ở cả hai nước ký kết,
việc giảm đánh thuế hai lần sẽ được nêu phù hợp với các đoạn sau đây của điều
này
2. Khi cư dân của Việt Nam phát sinh thu nhập theo luật của
Malaysia và các quy định của Hiêp định này có thể bị đánh thuế ở Malaysia, Việt
Nam sẽ cho phép khấu trừ thuế đối với thu nhập của cư dân đó một khoản bằng với
số thuế đã nộp ở Malaysia. Tuy nhiên việc khấu trừ này sẽ không vượt quá phần
thuế của Việt Nam được quy vào thu nhập như đã tính toán trước khi cho khấu trừ.
3. Với mục
đích của đoạn 2, thuật ngữ “thuế đã nộp ở Malaysia” sẽ được coi là bao gồm thuế
của Malaysia theo pháp luật của Malaysia và Hiêp định này được nộp đối với mọi
thu nhập phát sinh từ các nguồn ở Malaysia đã có thu nhập không chịu thuế ở mức
được giảm hoặc được miễn thuế của Malaysia phù hợp với:
a. Phân hạng
7A của đạo luật về thuế thu nhập năm 1967 của Malaysia; hoặc
b. Mục 22,
23, 29, 35 và 37 của đạo luật khuyến khích đầu tư năm 1986 của Malaysia, có hiệu
lực cho đến ngày ký Hiêp định này; hoặc
c. Mọi quy định
khác có thể sau đó được hướng dẫn ở Malaysia trong việc thay đổi, hay bổ sung
pháp luật ưu đãi đầu tư cho đến khi được cơ quan có thẩm quyền của các nước ký
kết đồng ý là một đặc tính đáng kể tương tự.
4. Nếu cư dân
của Malaysia phát sinh thu nhập theo pháp luật Việt Nam và các quy định của
Hiêp định này bị đánh thuế ở Việt Nam, Malaysia sẽ cho phép khấu trừ thuế đối với
thu nhập của cư dân đó một khoản bằng với số thuế đã nộp ở Việt Nam. Tuy nhiên
việc khấu trừ này sẽ không vượt quá phần thuế của Malaysia được quy vào thu nhập
như đã tính toán trước khi cho khấu trừ.
5. Với mục
đích của đoạn 4, thuật ngữ “thuế đã nộp ở Việt Nam” sẽ được coi là bao gồm thuế
của Việt Nam theo pháp luật của Việt Nam và Hiêp định này được nộp đối với mọi
thu nhập phát sinh từ các nguồn ở Việt Nam đã có thu nhập không chịu thuế ở mức
được giảm hoặc được miễn thuế của Việt Nam phù hợp với:
a. Các quy định
của mục 26, 27, 28, 32 hoặc 33 của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1987)
và các quy định được kết nối, có hiệu lực vào ngày ký Hiêp định này hoặc được sửa
đổi chỉ trong khía cạnh hẹp sau ngày ký Hiêp định này; hoặc
b. Mọi quy định
khác có thể sau đó được hướng dẫn ở Việt Nam trong việc thay đổi, hay bổ sung
pháp luật hiện hành liên quan các biện pháp ưu đãi đặc biệt được thiết kế để
khuyến khích phát triển kinh tế Việt Nam trong chừng mực được cơ quan có thẩm
quyền của các nước ký kết đồng ý là một đặc tính đáng kể tương tự
6. Với mục
đích của tín dụng được đề cập ở đoạn 2 và 4 của điều này, thuế bị đánh đối với
các khoản thu nhập sau đây sẽ được coi là 10 % của toàn bộ số thu nhập theo các
biện pháp ưu đãi đặc biệt được thiết kế để khuyến khích phát triển kinh tế:
a. trong trường
hợp thu nhập từ Malaysia, thu nhập theo điều 11, 12, và 13
b. trong trường
hợp thu nhập từ Việt Nam, thu nhập theo điều 10, 11, 12, 13 và lợi nhuận đối với
thuế doanh thu;
Điều 25. Không phân biệt đối xử
1. Các công
dân quốc gia của nước ký kết sẽ không là đối tượng bị đánh thuế ở nước ký kết
khác hoặc bất cứ yêu cầu nào được kết nối mà khác hoặc phiền toái hơn hệ thống
thuế và các yêu cầu đã được kết nối đối với công dân quốc gia của nước khác phải
chịu hoặc có thể phải chịu trong trường hợp tương tự.
2. Hệ thống
thuế về cơ sở thường trú mà doanh nghiệp của nước ký kết có ở nước ký kết khác sẽ
không ít thuận lợi hơn khi được áp dụng ở nước khác so với hệ thống thuế khi được
áp dụng với doanh nghiệp của nước đó khi tiến hành các hoạt động giống như
nhau. Quy định này sẽ không được hiểu như là sự sẵn sàng giúp đỡ nước ký kết để
cấp cho cư dân của nước ký kết khác khoản chiết khấu, trợ cấp và giảm trừ bất kỳ
cho mục đích thuế trên tài khoản hộ tịch hoặc các trách nhiệm gia đình mà cư
dân của nó được cấp.
3. Các doanh
nghiệp của nước ký kết mà vốn là do một hay nhiều cư dân của nước ký kết sở hữu
hay kiểm soát toàn bộ hay một phần một cách trực tiếp hay gián tiếp sẽ không là
đối tượng với bất kỳ loại thuế hay bất kỳ yêu cầu nào được kết nối ở nước ký kết
được nêu đầu tiên mà khác hay phiền toái hơn hệ thống thuế và các yêu cầu được
kết nối dành cho các doanh nghiệp tương tự khác là hoặc có thể là đối tượng của
nước được nêu đầu tiên
4. Các quy định
của đoạn 2 và 3 của điều này sẽ không áp dụng với thuế doanh thu của Việt Nam
trong bất kỳ trường hợp nào vượt quá 10% tổng lợi nhuận đã nộp, và hệ thống thuế
của Việt Nam liên quan đến các hoạt động sản xuất nông nghiệp.
5. Điều này sẽ
không được hiểu như là việc sẵn sàng giúp đỡ của cả hai nước ký kết để cấp cho
cá nhân không phải cư dân của nước đó khoản chiết khấu, trợ cấp và giảm trừ bất
kỳ cho mục đích thuế như đã được cấp cho các cá nhân là cư dân
6. Điều này sẽ
không được hiểu như là để ngăn cản cả hai nước ký kết giới hạn công dân quốc
gia của nước mình việc hưởng các ưu đãi thuế được thiết lập để khuyến khích
phát triển kinh tế ở nước đó.
7. Các quy định
của điều này sẽ chỉ áp dụng với các loại thuế là đối tượng của Hiêp định này.
Điều 26. Thủ tục thỏa thuận lẫn nhau
1. Nếu cư dân
của nước ký kết nhận thấy rằng các hành động của cơ quan có thẩm quyền của một
hoặc cả hai nước ký kết dẫn đến kết quả hoặc sẽ dẫn đến kết quả việc đánh thuế
lên người này không phù hợp với các quy định của Hiêp định, người này có thể kiến
nghị vụ việc của mình đến của quan có thẩm quyền của nước ký kết mà người này
là cư dân, không phân biệt về các biện pháp khắc phục hậu quả được quy định
theo luật trong nước của các quốc gia đó. Vụ việc phải được kiến nghị trong
vòng ba năm từ thông báo đầu tiên về kết quả hành vi trong lĩnh vực thuế mà
không phù hợp với các quy định của Hiêp định này
2. Cơ quan có
thẩm quyền sẽ cố gắng giải quyết vụ việc bằng việc thỏa thuận lẫn nhau với cơ
quan có thẩm quyền của nước ký kết khác, với một cách nhìn để tránh việc đánh
thuế không phù hợp với Hiêp định, nếu như việc đó xảy ra là có lý do chính đáng
và bản than nó có thể có giải pháp thích hợp.
3. Các cơ
quan có thẩm quyền của nước ký kết sẽ cố gắng giải quyết bằng cách thỏa thuận đối
với bất cứ vướng mắc hay nghi ngờ nào phát sinh trong việc giải thích hoặc áp dụng
Hiêp định. Các cơ quan cũng tư vấn cho nhau để loại bỏ việc đánh thuế hai lần
trong những trường hợp không được quy định tại Hiêp định.
4. Các cơ
quan có thẩm quyền của nước ký kết có thể trực tiếp truyền thông với nhau cho mục
đích đạt được thỏa thuận về khía cạnh của các đoạn trước.
Điều 27. Trao đổi thông tin
1. Cơ quan có
thẩm quyền của nước ký kết sẽ trao đổi các thông tin khi cần thiết để tiến hành
các quy định của Hiêp định này hoặc của pháp luật trong nước của nước ký kết
liên quan các loại thuế được bao quát bởi Hiêp định trong chừng mực mà hệ thống
thuế theo đó không trái với Hiêp định. Mọi thông tin nước ký kết nhận được sẽ
được xử lý như bí mật theo cách thức giống nhau như thông tin thu được theo
pháp luật trong nước của nước đó và sẽ chỉ được tiết lộ cho các cá nhân hoặc cơ
quan có thẩm quyền (bao gồm tòa án hay cơ quan xem xét có thẩm quyền) liên quan
đến việc đánh giá hay thu thậm, cưỡng chế hay truy tố, hoặc xác định các khiếu
nại liên quan các loại thuế được Hiêp định này bao quát.
2. Không có vụ
việc nào mà các quy định ở đoạn 1 sẽ bị hiểu là áp đặt lên nước ký kết nghĩa vụ:
a. tiến hành
các biện pháp hành chính không đúng pháp luật hoặc thực tế hành chính của nước
ký kết đó hoặc nước ký kết khác;
b. cung cấp
thông tin không thể có được theo luật hoặc trong quá trình thông thường của cơ
quan hành chính của nước ký kết đó hoặc nước ký kết khác;
c. cung cấp
thông tin sẽ làm tiết lộ bí mật thương mại, kinh doanh, công nghiệp, thương
nghiệp hay nghề nghiệp hoặc quy trình thương mại hoặc thông tin mà việc tiết lộ
ra là trái với chính sách công.
Điều 28. Viên chức ngoại giao và lãnh sự
Hiêp định này sẽ không ảnh hưởng
cho các đặc quyền tài chính của các viên chức ngoại giao và lãnh sự theo các
quy định chung của pháp luật quốc tế hoặc theo quy định của các thỏa thuận đặc
biệt.
Điều 29.
Hiệu lực
Mỗi một nước ký kết sẽ thông báo
cho nước ký kết khác việc hoàn thành các thủ tục được yêu cầu theo pháp luật nước
mình để Hiêp định này có hiệu lực. Hiêp định này sẽ có hiệu lực sau ngày các
thông báo và sẽ có hiệu lực:
a. Ở Việt Nam:
(i) đối với các loại thuế khấu
trừ tại nguồn, liên quan đến số thuế phải chịu đã trả vào hoặc sau ngày 01
tháng giêng của năm dương lịch tiếp theo năm Hiêp định này có hiệu lực;
(ii) đối với các loại thuế khác
của Việt Nam có liên quan đến thu nhập, lợi tức hoặc các khoản thu được phát
sinh trong năm dương lịch tiếp theo năm Hiêp định này có hiệu lực;
b. Ở Malaysia:
(i) đối với các loại thuế thu nhập
khấu trừ có nguồn gốc từ người không cư trú, liên quan đến thu nhập phát sinh
vào hoặc sau ngày 01 tháng giêng của năm dương lịch kế tiếp năm mà những thông
báo mới hơn được đưa ra;
(ii) đối với các loại thuế khác
của Malaysia thì năm bắt đầu là vào hoặc sau ngày 01 tháng giêng của năm dương
lịch thứ hai theo sau năm mà những thông báo mới hơn được đưa ra;
Điều 30. Chấm dứt
Hiêp định sẽ vẫn
có hiệu lực vô thời hạn, nhưng vào hoặc trước ngày 30 tháng sáu của năm dương lịch
bắt đầu sau khi hết thời hạn năm năm từ ngày có hiệu lực, cả hai nước ký kết có
thể cho nước ký kết khác thông báo bằng văn bản về việc chấm dứt, thông qua các
kênh ngoại giao. Trong tình huống này, Hiêp định sẽ chấm dứt hiệu lực:
a. ở Việt Nam:
(i) đối với các loại thuế khấu
trừ tại nguồn, liên quan đến số thuế phải chịu đã trả vào hoặc sau ngày 01
tháng giêng của năm dương lịch tiếp theo năm mà thông báo chấm dứt được đưa ra;
(ii) đối với các loại thuế khác
của Việt Nam có liên quan đến thu nhập, lợi tức hoặc các khoản thu được phát
sinh trong năm dương lịch tiếp theo năm mà thông báo chấm dứt được đưa ra và
trong các năm tiếp theo sau;
b. Ở Malaysia:
(i) đối với các loại thuế thu nhập
khấu trừ có nguồn gốc từ người không cư trú, liên quan đến thu nhập phát sinh
vào hoặc sau ngày 01 tháng giêng của năm dương lịch kế tiếp năm mà thông báo được
đưa ra;
(ii) đối với các loại thuế khác
của Malaysia thì năm bắt đầu là vào hoặc sau ngày 01 tháng giêng của năm dương
lịch thứ hai theo sau năm mà thông báo được đưa ra;
Trước sự chứng
kiến đã được ký bên dưới, theo đúng ủy quyền bởi Chính phủ của cả hai, đã đồng
ký vào Hiêp định này.
Được lập
thành hai bản tại Kuala Lumpur ngày 7 tháng 9 năm 1995, mỗi thứ bằng tiếng Việt,
tiếng Mã Lai và tiếng Anh, ba bản có giá trị như nhau. Trường hợp có tranh cãi
trong giải thích và áp dụng Hiêp định này, sẽ ưu tiên bản tiếng anh.
ĐẠI
DIỆN CHÍNH PHỦ
NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM
|
ĐẠI
DIỆN CHÍNH PHỦ
CỦA NƯỚC MALAYSIA
|
Hiệp định này có hiệu lực vào
ngày 13 tháng 8 năm 1996.