BỘ
TÀI CHÍNH
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
59-TC-VP-TT
|
Hà
Nội, ngày 19 tháng 05 năm 1958
|
THÔNG TƯ
VỀ VIỆC TRÍCH 10% THUẾ RƯỢU THU CỦA TƯ NHÂN THÙ LAO CHO NGÂN
SÁCH XÃ
Thuế rượu là một nguồn thu lớn trong
thuế hàng hóa, nhưng hầu hết rải rác ở nông thôn, một số hộ sản xuất rượu có
đăng ký, tập trung vào một số thôn xã có nghề nấu rượu lâu đời, còn một số phân
tán ở các thôn xã khác.
Ngoài ra còn rất nhiều nhà nấu
rượu lậu để bán hoặc để “tự túc ” nhất là trong dịp Tết. Riêng tỉnh Nam định,
theo tài liệu liên hệ trong lớp học tập chính sách rượu của cán bộ xã, đã có
7.000 nhà nấu lậu, theo tài liệu của Chi cục thống kê số nhà nấu lậu còn nhiều
hơn. Có thôn hàng trăm nhà nấu lậu, trong đó có nhiều gia đình cán bộ thôn xã
cũng nấu lậu.
Công tác chống nấu, bán, uống rượu
lậu thuế ở nông thôn, đụng chạm đến quyền lợi, tập quán lâu đời của một số lớn
nông dân. Cho nên đơn độc cán bộ ngành Rượu không thể làm nổi mà cần phải có sự
lãnh đạo chặt chẽ của Đảng Bộ, Chính quyền địa phương, sự tham gia tích cực của
cán bộ thôn, xóm, xã cũng như đông đảo quần chúng.
Để động viên chính quyền và đoàn
thể nhân dân xã lãnh đạo và tích cực tham gia chống rượu lậu, tăng thu cho công
quỹ, xây dựng ngân sách xã, trên cơ sở đó hạn chế dần việc nấu và uống rượu bừa
bãi ở nông thôn, tiết kiệm thóc gạo và tạo điều kiện giáo dục cải tạo các nhà sản
xuất rượu ở nông thôn được tốt hơn, Bộ quyết định trích 10% thuế rượu thu của
tư nhân để thù lao cho xã và quy định chế độ thù lao cho cán bộ xã được ủy nhiệm
giúp cán bộ ngành rượu quản lý kiểm soát các hộ lẻ tẻ.
1) Thù lao
cho xã 10% thuế rượu của tư nhân.
Kể từ tháng 6 năm 1958, sẽ trích
10% tổng số thuế rượu thu của tư nhân (trước khi điều tiết cho tổng dự toán tỉnh)
và ở tỉnh nào thì thù lao cho các xã trong tỉnh đó. Số tiền này sẽ tập trung về
tỉnh do Ủy ban hành chính phân phối lại cho các xã theo phương châm xã thu nhiều
hưởng nhiều, thu ít hưởng ít, những xã không thu cũng được hưởng vì những xã
này cũng có trách nhiệm chống lậu và có chống lậu có kết quả thì mới có thị trường
để tiêu thụ rượu có thuế.
NGUYÊN TẮC PHÂN PHỐI LẠI CHO CÁC XÃ
a) Đối với các xã có hộ sản xuất
rượu đăng ký:
Được hưởng một tỉ lệ sau đây so
với số thuế rượu thu trong xã:
- Phần thu từ 2 triệu đồng trở xuống
được hưởng 5%.
- Phần thu từ trên 2 triệu đồng
lên đến 10 triệu đồng: được hưởng 1%.
- Phần thu từ trên 10 triệu đồng
trở lên được hưởng 0,5%.
Thí dụ: - xã Hưng trạch tỉnh Quảng
bình mỗi tháng thu 1.442.200 đồng thì được hưởng
đồng
- Xã Vũ thành tỉnh Hà nam mỗi
tháng thu được 7.391.300 đồng thì được hưởng:
2.000.000 đồng được hưởng 5% =
100.000 đồng
5.391.300 đồng được hưởng 1% =
53.913 đồng
cộng:.. 153.913 đồng
- Xã Thanh mai tỉnh Hà đông mỗi
tháng thu 13.825.600 đồng thì được hưởng:
2.000.000 đồng được hưởng 5% =
100.000 đồng
8000.000 đồng được hưởng 1% =
80.000 đồng
3.825.600 đồng được hưởng 0,5% =
19.128 đồng.
cộng:…… 199.128 đồng
b) Đối với những xã không có hộ
sản xuất rượu đăng ký:
Sau khi phân phối cho những xã
có thu thuế và thù lao cho cán bộ ủy nhiệm quản lý thì phần còn lại sẽ chia đều
cho các xã không có hộ sản xuất rượu đăng ký, kể tất cả những xã trong khu vực
rượu tư nhân cũng như các xã trong khu vực bán rượu Quốc doanh trong tỉnh.
Đối với xã có 1, 2 hộ mà số tiền
thuế thu ít quá, tỉ lệ được hưởng không bằng các xã không có hộ sản xuất đăng
ký, thì được hưởng bằng những xã trên.
Thí dụ: Tỉnh Hà nam tháng 2-1958
thu được 29.000.000 đồng thuế rượu:
Trích 10% thù lao cho Ngân sách
xã là: 2.900.000 đồng.
Thù lao cho 11 xã có thu thuế rượu
835.740 đồng
Thù lao cho 18 cán bộ xã được ủy
nhiệm quản lý… 144.000 đồng
Cộng ... 979.740 đồng
Tiền thù lao thuế rượu của toàn
tỉnh… 2.900.000 đồng
Thù lao cho xã và có thu và cán
bộ ủy nhiệm quản lý… 979.740 đồng
Còn lại 1.920.260 đồng.
Tổng số xã của tỉnh Hà nam là
134, trừ 11 xã thu nhiều đã được thù lao theo tỉ lệ phân phối:
Còn lại 123 xã, mỗi xã được hưởng:
1.920.260đ. : 123 = 15.092 đồng.
Đối với một số tỉnh, thành phố
đã thống nhất kinh doanh toàn tỉnh, toàn thành, không thu thuế rượu tư nhân nữa
thì tổng dự toán tỉnh và thành phố đó được hưởng cả số thuế thu vào rượu mà địa
phương bắt lậu, không phải nộp về Trung ương nữa.
Để khuyến khích cán bộ xã tích cực
chống lậu bảo vệ khu vực rượu quốc doanh, Ủy ban hành chính tỉnh sẽ trích 30% số
thuế thu vào số rượu lậu bắt được ở các xã trong trường hợp các xã hoặc tự động
hoặc phối hợp với cán bộ rượu để bắt lậu. Số tiền này là tiền thù lao cho xã đó
sung vào ngân sách xã. Cơ quan rượu sẽ trích ngay số tiền thù lao nói trên giao
cho xã phần còn lại nộp về tỉnh (Sở dĩ định tỉ lệ thù lao 30% số thuế là vì tiền
thuế thu vào rượu bắt lậu rất ít vả lại những xã trong các tỉnh này không được
hưởng thù lao thuế rượu thu của tư nhân).
Riêng đối với tỉnh Kiến an, chỉ
có một huyện thu thuế rượu tư nhân, còn bốn huyện đã thống nhất kinh doanh thì
chỉ sử dụng 10% thuế rượu tư nhân để thù lao cho các xã và cán bộ ủy nhiệm quản
lý trong huyện đó thôi. Còn các xã trong khu vực quốc doanh của bốn huyện khác
thì áp dụng theo như đã quy định trên đây cho các xã thuộc các tỉnh, thành phố
đã hoàn toàn thống nhất kinh doanh rượu.
2) Thù lao
cho cán bộ xã được ủy nhiệm quản lý.
Nguồn thu về thuế rượu tuy tập
trung vào một số thôn, nhưng cũng còn nhiều hộ có đăng ký ở phân tán lẻ tẻ
trong các thôn cách nhau rất xa.
Cán bộ ngành rượu không quản lý
thường xuyên hết cả các hộ được, mà đối với các hộ ở lẻ tẻ thường phải thu thuế
theo lối định kỳ, còn việc quản lý, kiểm soát thì giao cho Ủy ban hành chính
xã. Vì không có chế độ thù lao và chưa quy định trách nhiệm rõ ràng nên Ủy ban
hành chính xã thường coi nhẹ việc này, để cho các nhà sản xuất lợi dụng nấu lậu.
Nay cần ủy nhiệm rành mạch cho
cán bộ xã quản lý các hộ lẻ tẻ, phân tán để cán bộ rượu có thể chuyên chú việc
quản lý các nơi sản xuất tập trung, cũng như liên lạc với các xã cùng làm nhiệm
vụ chống lậu và tổ chức quản lý thị trường rượu tư nhân. Những cán bộ được ủy
nhiệm quản lý sẽ được hưởng một số tiền thù lao hàng tháng là 3% số thuế thu ở
xã đó, nhưng không quá 10.000 đồng.
Số tiền này do Ủy ban hành chính
tỉnh cấp và trích trong số tiền thù lao về thuế rượu của toàn tỉnh, trước khi
chia đều cho các xã không có hộ sản xuất đăng ký (như nói ở đoạn b trên đây).
Số cán bộ này do Chi sở rượu,
căn cứ vào nhu cầu công tác, xét và đề nghị Ủy ban hành chính tỉnh duyệt y. Cán
bộ ủy nhiệm quản lý chỉ làm nhiệm vụ quản lý và chống lậu, trong các nhà sản xuất
có đăng ký và nói chung trong thôn xóm, còn việc thu thuế vẫn do cán bộ rượu phụ
trách.
Quy định như vậy để tránh tiền
thuế đọng lại ở cán bộ xã.
Chế độ làm việc của cán bộ ủy
nhiệm quản lý do Sở rượu Trung ương quy định.
Tiền thù lao về thuế rượu của xã
nào sung vào ngân sách xã đó.
Thông tư này chỉ áp dụng ở các tỉnh
đã thống nhất kinh doanh rượu, đối với các tỉnh miền núi sẽ nghiên cứu sau.
Sở rượu Trung ương có trách nhiệm
giải thích và hướng dẫn việc thi hành thông tư này.
Bộ mong Ủy ban hành chính tỉnh
thảo luận với các ngành liên quan; tổ chức phổ biến và thi hành Thông tư này có
kết quả tốt.
|
KT. BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG
Trịnh Văn Bính
|