PHỦ
THỦ TƯỚNG
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
531-TTg
|
Hà
Nội, ngày 10 tháng 12 năm 1958
|
THÔNG TƯ
VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁN BỘ XÃ
I. TÌNH HÌNH
CÁN BỘ XÃ
Cán bộ xã đã đóng góp một phần
quan trọng vào thắng lợi chung của sự nghiệp cách mạng và hiện đang góp phần
tích cực vào công cuộc xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Có người đã
tham gia cách mạng từ tiền khởi nghĩa, có người tham gia hoạt động từ kháng chiến
và có người tham từ hòa bình tới nay. Trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ của
cách mạng, của kháng chiến, của kiến thiết hòa bình, anh chị em đã tỏ ra trung
thành với cách mạng, tin tưởng ở Đảng và Chính phủ, liên hệ mật thiết với nhân
dân, luôn luôn cố gắng khắc phục khó khăn gian khổ, bền bỉ, tích cực làm nhiệm
vụ. Nhiều người đã được tuyên dương, khen thưởng.
Tuy nhiên, trước tình hình và
nhiệm vụ cách mạng hiện nay, cán bộ xã cũng như cán bộ các cấp khác, đều còn
nhiều chỗ yếu, chỗ kém vì trình độ chính trị và năng lực công tác chưa cược
nâng cao đúng mức. Lại thêm cán bộ xã, trong công tác và trong đời sống còn gặp
nhiều khó khăn.
Thông tư này vạch một số chủ
trương, chính sách nhằm nâng cao một bước trình độ chính trị và năng lực công
tác của cán bộ xã, đồng thời nhằm giúp cán bộ xã khắc phục những khó khăn hiện
thời. Như vậy để tăng cường năng lực hoạt động của cán bộ xã. Đó là một điều cốt
yếu đảm bảo sự nghiệp hợp tác hóa nông thôn và phát triển sản xuất nông nghiệp
được tiến hành vững chắc và có kết quả tốt.
II. NHIỆM VỤ
CỦA CÁN BỘ XÃ
Cán bộ xã hầu hết là nông dân
lao động, là những người vừa công tác vừa sản xuất, không phải là cán bộ thoát
ly sản xuất. Cán bộ xã là sợi giây nối liền nhân dân với Đảng và Chính phủ. Từ
trước tới nay, cán bộ xã đã giữ một vai trò quan trọng trong việc động viên,
giáo dục, tổ chức nhân dân chấp hành mọi chủ trương, chính sách ở nông thôn. Hiện
nay trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đưa nông thôn vào con đường hợp
tác hóa, vai trò của cán bộ xã lại càng quan trọng.
Để làm tròn nhiệm vụ, cán bộ xã
phải:
- Trung thành với cách mạng,
kiên quyết đấu tranh làm tốt cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, làm tốt hợp tác
hóa nông thôn, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, phục vụ nông dân, tích cực chấp
hành mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ, có nhiệt tình xã hội chủ
nghĩa.
- Mật thiết liên hệ với quần
chúng, luôn luôn quan tâm đến đời sống của quần chúng, luôn luôn tìm hiểu, lắng
nghe ý kiến, nguyện vọng, thắc mắc của quần chúng để kịp thời giải quyết và phản
ảnh lên cấp trên. Về mọi việc có liên quan đến quần chúng đều phải bàn bạc
với quần chúng, phải đi đúng đường lối quần chúng.
- Gương mẫu trong công tác và sản
xuất, gương mẫu trong tổ đổi công và hợp tác xã.
- Có ý thưc tổ chức và kỹ thuật.
- Thường xuyên học tập, phê bình
và tự phê bình để tiến bộ. Thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
III. CHÍNH
SÁCH ĐỐI VỚI CÁN BỘ XÃ
1. Giáo dục,
bồi dưỡng cán bộ xã:
Để tạo điều kiện cho cán bộ xã
có đủ khả năng làm tốt mọi công tác của mình, vấn đề giáo dục, bồi dưỡng về các
mặt chính trị, văn hóa và nghiệp vụ cho cán bộ xã là rất quan trọng.
Về chính trị: Nâng cao
trình độ chính trị và nhận thức về chính sách cho cán bộ xã, nâng cao giác ngộ
xã hội chủ nghĩa, chủ yếu giáo dục cán bộ về các vấn đề cơ bản của việc cải tạo
xã hội chủ nghĩa ở nông thôn.
Dựa vào phương hướng chung đề ra
trên đây và căn cứ tình hình cụ thể từng nơi, trình độ cán bộ, hoàn cảnh công
tác khác nhau và yêu cầu của nhiệm vụ từng thời gian, để định chương trình, kế
hoạch giáo dục cho sát.
Việc giáo dục cán bộ xã cần được
tiến hành một cách thường xuyên, chủ yếu là huyện tổ chức từng đợt học tập tại
xã sau từng vụ mùa. Đối với cán bộ chủ chốt, ngoài việc học tập tại xã, tỉnh cần
tổ chức các lớp huấn luyện ngắn ngày để bồi dưỡng thêm.
Về văn hóa: Bồi dưỡng từng
bước, nâng cao dần trình độ văn hóa cho cán bộ xã.
Thanh toán nạn mù chữ cho tất cả
cán bộ chưa biết chữ và bổ túc cho cán bộ đã biết chữ.
Ở miền xuôi thanh toán xong nạn
mù chữ cho cán bộ xã trong năm 1958. Trong kế hoạch ba năm, bổ túc cho cán bộ
xã tới trình độ lớp 2.
Ở miền núi (kể cả vùng rẻo cao)
trong kế hoạch ba năm tất cả cán bộ xã phải được thanh toán xong nạn mù chữ.
Những cán bộ chủ chốt và những
cán bộ cũ hoạt động lâu năm nhưng trình độ văn hóa còn kém phải được bổ túc văn
hóa trước. Cần đặc biệt chú ý cán bộ phụ nữ.
Việc bồi dưỡng văn hóa cho cán bộ
xã chủ yếu là mở những lớp tại xã, ngoài giờ sản xuất, để anh chị em có thể vừa
học tập, vừa công tác, vừa sản xuất. Ở nơi nào có điều kiện thì nên mở lớp tập
trung. Đối với miền núi, cần có kế hoạch, tổ chức những lớp tập trung ngắn ngày
cho cán bộ chủ chốt.
Về nghiệp vụ: Cán bộ xã,
nói chung, phải biết công việc chung của xã. Để góp phần vào công việc chung,
cán bộ xã phải được phân công chuyên trách những ngành, những công tác nhất định
về kinh tế, văn hóa, nội chính, chủ yếu về kinh tế. Cho nên cán bộ xã phải được
giáo dục và bồi dưỡng về nghiệp vụ để làm tốt công tác của mình.
Phương pháp chủ yếu là tỉnh, huyện
mở những lớp ngắn ngày để giáo dục, bồi dưỡng cán bộ xã về nghiệp vụ.
Tóm lại, việc giáo dục, bồi dưỡng
về các mặt trên đây cần làm thường xuyên, có lãnh đạo thống nhất về nội dung và
kế hoạch; phải thích hợp với từng nơi, từng lúc và với trình độ của từng loại
cán bộ.
2. Đào tạo
và đề bạt cán bộ xã:
Việc đào tạo, đề bạt cán bộ xã
phải đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng và đường lối nông thôn của Đảng. Đào tạo,
đề bạt cán bộ trước mắt là nhằm phục vụ cho việc phát triển phong trào đổi
công, hợp tác, đẩy mạnh sản xuất. Phải chú trọng đúng mức bộ đội phục viên,
thương binh, phụ nữ. Chú ý đào tạo cán bộ cho từng vùng: miền núi, miền biên giới,
miền biển, vùng công giáo, v.v...
Tiêu chuẩn đề bạt cán bộ xã là đức
và tài thể hiện trên ba mặt chủ yếu:
- Kiên quyết chấp hành các chính
sách.
- Có khả năng đoàn kết, động
viên, tổ chức nhân dân làm tốt mọi công tác; được nhân dân tín nhiệm.
- Tương đối có năng lực đảm
đương được nhiệm vụ.
Căn cứ vào phương hướng trên,
các ngành, các cấp cần định yêu cầu và kế hoạch cụ thể cho sát với tình hình và
thực hiện từng bước.
Trước hết phải tìm hiểu tình
hình tư tưởng và khả năng cán bộ để giao công tác cho thích hợp. Qua công tác,
cần chú ý giáo dục, bồi dưỡng thêm những cán bộ hiện có và đúng những cán bộ đó
để dìu dắt, bồi dưỡng những cán bộ mới.
3. Chấn chỉnh
tổ chức và lề lối làm việc để bảo đảm cho cán bộ xã vừa công tác vừa sản xuất:
Để giảm bớt những khó khăn của
cán bộ xã trong công tác, đồng thời để giúp cho cán bộ xã có đủ thì giờ sản xuất,
cần phải chấn chỉnh tổ chức và lề lối làm việc ở xã, đi đôi với việc cải tiến lề
lối làm việc của các cấp trên đối với xã. Vì vậy, cần nghiên cứu và chấn chỉnh
các tổ chức ở xã theo nguyên tắc: đơn giản, gọn nhẹ, ít người chạy việc. Tránh
xu hướng ở trên có bộ phận gì, ở xã phải có bộ phận ấy, làm cho bộ máy xã cồng
kềnh, không hợp lý, bận nhiều người mà việc không chạy.
Ở xã, cần hạn chế đến mức tối
thiểu cán bộ thường trực. Cần quy định chế độ hội nghị, sinh hoạt, tránh hội họp
nhiều để đảm bảo thì giờ sản xuất và sức khỏe của cán bộ và nhân dân. Đối với
cán bộ làm nhiệm vụ thường trực, mỗi ngày ít nhất phải đảm bảo nửa ngày sản xuất.
Còn cán bộ không thường trực thì làm công tác ngoài giờ sản xuất. Cần giáo dục
cho nhân dân tôn trọng nội quy làm việc và thì giờ sản xuất của cán bộ xã. Cán
bộ trên về xã cũng phải hết sức tôn trọng nội quy ấy và thì giờ sản xuất của
cán bộ xã.
Các cấp trên, nhất là các ngành ở
cấp trung ương cần sửa đổi lề lối làm việc để tránh tình trạng đưa công việc về
xã quá nhiều, dồn dập, có khi lại trái ngược với nhau, gây khó khăn lớn cho cán
bộ xã trong công tác và sản xuất.
4. Bảo đảm đời
sống cho cán bộ xã, quy định chế độ thù lao cấp phí cho cán bộ xã:
Cán bộ xã là những người không
thoát ly sản xuất, phải vừa sản xuất, vừa công tác, cho nên cần bảo đảm thì giờ
sản xuất của cán bộ xã như những điều đã vạch ra trong điểm 3. Về phần cán bộ
xã, anh chị em phải kiên quyết xếp đặt công tác và thì giờ để sản xuất. Phải dựa
vào sản xuất để sống và cải thiện đời sống.
Tuy nhiên, vì cán bộ xã phải hy
sinh một phần thì giờ để làm công tác xã, phục vụ nhân dân, cho nên chúng ta phải
chú ý giáo dục nhân dân giúp đỡ cán bộ xã: giúp đỡ trong sản xuất, trong công
tác và khi cán bộ ốm đau, sinh đẻ. Cấp tỉnh và cấp huyện cần căn cứ vào tình
hình của địa phương mà giáo dục nhân dân tự nguyện tự giác tìm mọi cách giúp
cán bộ xã. Trong tổ đổi công, trong hợp tác xã, việc giúp đỡ này có nhiều cách
thực hiện thuận tiện, đặc biệt lúc cán bộ xã quá bận công tác, lúc phải đi công
tác xã, lúc ốm đau, sinh đẻ. Về phần Chính phủ, để giúp giải quyết một phần những
khó khăn của cán bộ xã, Chính phủ đã ban hành thông tư số 403-TTg ngày 14 tháng
08 năm 1958 quy định số thù lao và cấp công tác phí, hội nghị phí cho cán bộ
xã. Những quy định trên chỉ có thể giải quyết một phần những khó khăn của một số
cán bộ xã. Để căn bản giải quyết vấn đề đời sống của cán bộ xã, anh chị em phải
ra sức sản xuất và đồng bào xã phải có sự giúp đỡ cần thiết. Miễn là anh chị em
gương mẫu trong công tác, trong sinh hoạt, một lòng phục vụ quyền lợi của nhân
dân, thì nhân dân nhất định cũng một lòng ủng hộ và giúp đỡ anh chị em về mọi mặt.
5. Công tác
quản lý cán bộ xã:
Để thực hiện tốt những chủ
trương, chính sách trên đây, cần tăng cường công tác quản lý cán bộ xã nhằm
theo dõi, tìm hiểu, nắm tình hình cán bộ xã về các mặt. Căn cứ vào tình hình tổ
chức và khả năng quản lý cán bộ hiện nay, việc quản lý cán bộ xã quy định như
sau:
- Các cán bộ chủ chốt ở xã do Ủy
ban Hành chính tỉnh quản lý.
- Các cán bộ khác ở xã do Ủy ban
Hành chính huyện quản lý.
- Các ngành chuyên môn ở tỉnh và
huyện có trách nhiệm giúp Ủy ban Hành chính tỉnh và huyện quản lý cán bộ xã thuộc
ngành mình.
Trên đây, Thủ tướng phủ quy định
một số chủ trương, chính sách đối với cán bộ xã và công tác ở xã. Các Bộ, các Ủy
ban Hành chính khu, tỉnh cần nghiên cứu các chủ trương, chính sách ấy và hướng
dẫn việc thực hiện. Bộ Nội vụ có trách nhiệm theo dõi việc thực hiện toàn bộ chủ
trương chính sách này.
|
THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Phạm Văn Đồng
|