BỘ
NỘI VỤ
********
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
13/NV
|
Hà
Nội, ngày 04 tháng 9 năm 1972
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ NỘI VỤ SỐ 13/NV NGÀY 4 THÁNG 9 NĂM 1972 HƯỚNG DẪN VÀ
QUY ĐỊNH CỤ THỂ VỀ VIỆC TÍNH THỜI GIAN CÔNG TÁC CỦA CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC NHÀ NƯỚC
Ngày 27-12-1961 Hội đồng Chính
phủ đã ban hành Điều lệ tạm thời về các chế độ bảo hiểm xã hội đối với công
nhân, viên chức Nhà nước.
Một trong những nguyên tắc của
chính sách bảo hiểm xã hội là "mức đãi ngộ về bảo hiểm xã hội được quy định
căn cứ vào sự cống hiến, thời gian công tác", do đó mà vấn đề quy định việc
tính thời gian công tác của công nhân, viên chức có một ý nghĩa quan trọng.
Liên Bộ Nội vụ - Lao động đã ban
hành Thông tư số 9-TT/LB ngày 17-2-1962 hướng dẫn và quy định cụ thể về việc
tính thời gian công tác của công nhân, viên chức. Sau đó, Bộ Nội vụ lại ra những
văn bản sửa đổi, bổ sung Thông tư số 9-TT/LB và những văn bản quy định và hướng
dẫn cụ thể việc thi hành các chế độ bảo hiểm xã hội trong đó có những phần quy
định và hướng dẫn về cách tính thời gian công tác cho công nhân, viên chức để
hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội.
Nay Bộ Nội vụ tổng hợp trong
Thông tư này những điểm hướng dẫn và những quy định cụ thể còn có hiệu lực thi
hành cho phù hợp với thực tế, để tiện cho các ngành, các cấp nghiên cứu, áp dụng
các chế độ bảo hiểm xã hội đối với công nhân, viên chức Nhà nước.
I. ĐỊNH NGHĨA
VÀ QUY ĐỊNH CHUNG
Điều lệ tạm thời về các chế độ bảo
hiểm xã hội đã định nghĩa rõ: tất cả những danh từ đã dùng để chỉ tuổi nghề, tuổi
ngành, thâm niên công tác, thâm niên cách mạng v.v... nay gọi thống nhất là thời
gian công tác. Có 2 loại thời gian công tác: thời gian công tác nói chung và thời
gian công tác liên tục.
1. Thời
gian công tác nói chung
Tất cả những thời gian người
công nhân, viên chức thoát ly kinh tế gia đình, làm việc lấy lương hay sinh hoạt
phí làm nguồn sống chính ở các cơ quan, xí nghiệp, công trường, nông trường,
lâm trường, ở các tổ chức của Đảng hay đoàn thể cách mạng, ở trong quân đội
cách mạng theo chế độ tình nguyện hoặc theo chế độ nghĩa vụ đều được tính là thời
gian công tác nói chung. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp làm việc không có
lương hay sinh hoạt phí như thời gian hoạt động bí mật hay thời kỳ ta mới giành
được chính quyền, cán bộ chưa có chế độ sinh hoạt phí, khi ở cơ quan thì do cơ
quan, đoàn thể cung cấp ăn uống, khi xuống cơ sở thì sống dựa vào nhân dân; những
thời gian đó vẫn được tính là thời gian công tác.
Đối với những công nhân, viên chức
có thời gian làm công ăn lương dưới chế độ cũ, trước cách mạng tháng 8-1945 hay
ở vùng tạm bị chiếm trong thời kỳ kháng chiến, nếu công việc họ làm không có
tính chất chống phá cách mạng hoặc đàn áp nhân dân thì thời gian đó cũng được
tính là thời gian công tác nói chung.
Quy định thời gian công tác nói
chung là để xét xem người công nhân, viên chức đã lao động cho xã hội nhiều hay
ít để được hưởng quyền nghỉ ngơi khi tuổi già (chế độ hưu trí).
2. THời
gian công tác liên tục
Thời gian công tác liên tục là
thời gian người công nhân, viên chức làm việc liên tục không đứt quãng, ở một
ngành, một cơ quan, một xí nghiệp dưới chính thể Việt Nam dân chủ cộng hoà; nếu
làm việc ở dưới chế độ cũ thì không được tính là thời gian công tác liên tục.
Trường hợp người công nhân, viên chức được tổ chức điều động từ ngành, cơ quan,
xí nghiệp này đến ngành, cơ quan, xí nghiệp khác thì cũng được xem là liên tục
công tác.
Thời gian người cán bộ thực sự
hoạt động cho cách mạng trước ngày 19-8-1945 được tính là thời gian công tác
liên tục.
Quy định thời gian công tác liên
tục là để có cơ sở đãi ngộ người công nhân, viên chức trong các chế độ bảo hiểm
xã hội, đồng thời còn có tác dụng khuyến khích người công nhân, viên chức yên
tâm đi sâu vào ngành, nghề của mình, góp phần củng cố kỷ luật lao động, ổn định
lực lượng lao động trong các ngành kinh tế quốc dân.
II. NHỮNG QUY
ĐỊNH CỤ THỂ VỀ CÁCH TÍNH THỜI GIAN CÔNG TÁC
Căn cứ vào định nghĩa và quy định
chung trên đây, vào đặc điểm của quá trình hình thành đội ngũ công nhân, viên
chức của Nhà nước ta, nay quy định cụ thể cách tính thời gian công tác của công
nhân, viên chức Nhà nước như sau:
1. Thời gian
công tác của công nhân, viên chức có hoạt động cách mạng, trước ngày 19-8-1845
hay hoạt động ở vùng địch hậu trong thời kỳ kháng chiến.
a. Những cán bộ hoạt động cách mạng
trước ngày 19-8-1945 hay hoạt động ở vùng địch hậu trong thời kỳ kháng chiến, nếu
có thời gian bị đế quốc bắt giam giữ, cầm tù, thì nói chung những thời gian bị
giam giữ đó đều được tính là thời gian công tác liên tục. Riêng trường hợp bị đế
quốc bắt mà phản bội (làm tay sai cho chúng) thì thời gian công tác liên tục
hay thời gian công tác nói chung đều chỉ được tính từ khi trở lại làm việc ở cơ
quan, xí nghiệp.
b. Nếu vì đế quốc vây bắt, khủng
bố mà bị mất liên lạc với đoàn thể, phải nằm im, sau đó lại tiếp tục hoạt động,
nếu đã được tổ chức xác minh, thì thời gian nằm im không được tính nhưng vẫn được
cộng thời gian đã hoạt động cách mạng trước đó với thời gian hoạt động trở lại
để tính là thời gian công tác liên tục. Nhưng nếu có trường hợp trong một thời
gian ngắn không hoạt động thì sẽ được xét từng trường hợp cụ thể để giải quyết.
2. Thời gian
công tác của công nhân, viên chức có tham gia kháng chiến chống Pháp
a. Những cán bộ đã hoạt động
cách mạng lâu năm và những công nhân, viên chức đã tham gia kháng chiến chống
Pháp, được tặng thưởng Huân chương hay Huy chương kháng chiến, Huân chương, hay
Huy chương chiến thắng trong dịp khen thưởng tổng kết thành tích kháng chiến
thuộc đối tượng thi hành của Thông tư số 84-TTg ngày 20-8-1963 của Hội đồng
Chính phủ, nếu trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp có thời gian bị gián đoạn
công tác vì yêu cầu của tổ chức (giảm nhẹ biên chế, giải ngũ, phục viên...) hoặc
vì hoạt cảnh riêng (ốm đau, sinh đẻ, gia đình có khó khăn được nghỉ dài hạn
không lương) sau lại trở lại công tác, thì những thời gian đã thực sự cộng tác
trước đây (là cán bộ thoát ly hoặc cán bộ chủ chốt ở xã nói ở điểm 15, đoạn a
dưới đây), nay đều được cộng lại để tính là thời gian công tác liên tục, trừ thời
gian gián đoạn công tác thì không được tính.
Đối với những cán bộ, công nhân,
viên chức đã có thời gian tối thiểu tham gia kháng chiến hay tham gia các lực
lượng vũ trang và đủ điều kiện quy định trong bản thể lệ khen thưởng tổng kết
thành tích kháng chiến mà chưa được tặng thưởng Huân chương hay Huy chương thì
khi xét để cho được áp dụng điểm này phải được sự đồng ý của Bộ, ngành chủ quản
(nếu công tác ở Trung ương) hay uỷ ban hành chính khu, thành, tỉnh (nếu công
tác ở địa phương).
b. Những người trong thời kỳ
kháng chiến chưa phải là cán bộ thoát ly, chỉ là cơ sở kháng chiến, ủng hộ cách
mạng giúp đỡ cán bộ, mãi sau này mới tham gia công tác thì mặc dù có được khen
thưởng Huân chưởng, Huy chương cũng không thuộc diện nói trên.
c. Những công nhân, viên chức có
tham gia kháng chiến một thời gian rồi vì lý do riêng biệt nào đó, được tổ chức
cho phép trở về vùng địch tạm chiếm, nếu trong thời gian ở vùng địch tạm chiến
vẫn tiếp tục ủng hộ kháng chiến có thành tích giúp đỡ, nuôi dưỡng cán bộ, cất dấu
tài liệu, được khen thưởng Huân chương, Huy chương, bằng "gia đình có công
với nước"... sau ngày hoà bình lập lại, lại được tuyển dụng là công nhân,
viên chức Nhà nước thì được xét từng trường hợp cụ thể để cho cộng thời gian đã
tham gia kháng chiến trước khi vào vùng địch tạm chiếm với thời gian được trở lại
làm việc để tính thời gian công tác liên tục.
3. Thời gian
làm việc dưới chế độ cũ
a. Thời gian công nhân, viên chức
làm việc dưới chế độ cũ, trước cách mạng tháng 8-1945 hay ở vùng tạm bị chiếm
trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp mà không có hành động chống phá cách mạng
hoặc đàn áp nhân dân thì được tính là thời gian công tác nói chung, cụ thể quy
định như sau:
- Thời gian công nhân, viên chức
trực tiếp sản xuất, hoặc làm việc ở các ngành chuyên môn, khoa học, kỹ thuật,
hành chính đều được tính là thời gian công tác nói chung; Riêng đối với những
cá nhân có hành động chống phá cách mạng, đàn áp nhân dân thì thời gian ấy và tất
cả thời gian về trước đều không được tính là thời gian công tác.
- Thời gian công nhân, viên chức
làm việc trong các tổ chức, trực tiếp đàn áp nhân dân, chống phá cách mạng thì
không được tính là thời gian công tác; Riêng những người tuy ở trong các tổ chức
đó mà có hành động tốt, ủng hộ, giúp đỡ cách mạng thì những thời gian có hành động
ấy được tính là thời gian công tác nói chung.
b. Những công nhân, viên chức có
thời gian làm việc dưới chế độ cũ (ở công sở hay tư sở) nhưng đã liên hệ với
cách mạng, với kháng chiến và thực sự hoạt động cho cách mạng (tuy bề ngoài vẫn
làm công ăn lương của chế độ cũ) thì thời gian hoạt động cách mạng được tính là
thời gian công tác liên tục.
c. Trường hợp công nhân, viên chức
có thời gian làm việc dưới chế độ cũ mà không được tính là thời gian công tác
nói chung thì mặc dù trước đó có thời gian làm việc cho cách mạng, cho kháng
chiến, cũng không được tính.
4. Thời gian
làm việc theo chế độ tạm tuyển, hợp đồng (từ sau ngày hoà bình lập lại
20-9-1954)
a. Thời gian làm công nhật, có
việc thì làm, không có việc lại nghỉ, nay làm nơi này, mai làm nơi khác, làm
khoán tự do, làm gia công, mang về nhà làm (cơ quan không quản lý) đều không được
tính là thời gian công tác.
b. Thời gian làm việc theo chế độ
tạm tuyển, hợp đồng dưới 1 năm, sau đó đã thôi việc thì không được tính là thời
gian công tác; nếu làm việc được trên 1 năm rồi thôi việc (không phải bị kỷ luật,
buộc thôi việc) thì được tính là thời gian công tác nói chung.
c. Thời gian làm hợp đồng cho
nhiều cơ quan, xí nghiệp khác nhau, hết hạn hợp đồng ở cơ quan này, lại sang
làm hợp đồng ngay cho cơ quan khác thì những thời gian đó cũng chỉ được tính là
thời gian công tác nói chung (nếu trên 1 năm).
d. Thời gian làm việc tạm tuyển,
hợp đồng hưởng theo chế độ lương chung của Nhà nước, tiếp theo đó được chính thức
tuyển dụng là công nhân, viên chức thì được tính là thời gian công tác liên tục.
đ. Thời gian làm việc tạm tuyển
hưởng theo chế độ lương chung của Nhà nước liên tục từ cơ quan, xí nghiệp này
sang cơ quan xí nghiệp khác do cơ quan lao động hoặc Tổ chức điều động, tiếp
theo đó được chính thức tuyển dụng là công nhân, viên chức thì được tính là thời
gian công tác liên tục ngay từ khi bắt đầu làm việc tạm tuyển ở cơ quan thứ nhất.
5. Thời gian
tập sự, thử việc, thời gian học nghề theo lối kèm cặp
a. Thời gian công nhân, viên chức
tập sự, thử việc, liền theo đó được chính thức tuyển dụng thì được tính là thời
gian công tác liên tục (nếu vẫn liên tục công tác).
b. Học sinh học nghề theo lối
kèm cặp tại xí nghiệp có lương hay sinh hoạt phí, sau khi thành nghề được chính
thức tuyển dụng là công nhân, viên chức thì được tính là thời gian công tác
liên tục ngay từ khi bắt đầu học nghề.
6. Thời gian
nằm chờ công tác
Thời gian công nhân, viên chức
thương binh nằm chờ công tác do tổ chức chưa kịp bố trí thì được tính là thời
gian công tác liên tục (nếu vẫn liên tục công tác). Nhưng nếu cơ quan, xí nghiệp,
đơn vị đã bố trí công tác hợp lý mà không chịu nhận thì thời gian đó không được
tính là thời gian công tác, còn thời gian trước đó vẫn được cộng với thời gian
công tác sau này để tính là thời gian công tác liên tục.
7. Thời gian
đi học
a. Thời gian công nhân, viên chức
được cơ quan, xí nghiệp cử đi học các lớp nghiệp vụ, chính trị, văn hoá, đi học
các trường chuyên nghiệp sơ cấp, trung học, đại học trong nước hay nước ngoài đều
được tính là thời gian công tác liên tục (nếu vẫn liên tục công tác). Nếu công
nhân, viên chức tự ý xin thôi việc để đi học (không được cơ quan cử đi) thì thời
gian đi học không được tính là thời gian công tác, còn thời gian trước đó được
tính là thời gian công tác nói chung.
b. Thời gian học sinh và sinh
viên đi học ở các trường chuyên nghiệp sơ cấp, trung học, đại học... trước khi
đi là công nhân, viên chức không được tính là thời gian công tác. Thời gian
công tác chỉ được tính từ khi bắt đầu vào làm việc ở cơ quan, xí nghiệp Nhà nước.
8. Trường hợp
công nhân, viên chức tham gia công tác từ lúc nhỏ tuổi
Trường hợp công nhân, viên chức
đã tham gia công tác trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp từ khi còn nhỏ tuổi ở
các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước hay đơn vị quân đội thì được tính thời gian
công tác từ khi đủ 15 tuổi (chỉ tính trường hợp được phân công làm nhiệm vụ rõ
ràng, có hưởng lương, sinh hoạt phí hay được đơn vị cung cấp về ăn, mặc).
9. Thời gian
ở đoàn thanh niên xung phong
a. Thanh niên xung phong thoát
ly do Trung ương Đoàn thanh niên tổ chức, khi hết thời hạn, được chuyển ngay
sang cơ quan, xí nghiệp Nhà nước hoặc đã về địa phương một thời gian rồi mới được
tuyển vào cơ quan, xí nghiệp đều được cộng cả thời gian phục vụ ở Đoàn Thanh
niên xung phong với thời gian làm việc ở cơ quan, xí nghiệp, tính là thời gian
công tác liên tục.
b. Thời gian tham gia các Đoàn
thanh niên xung phong ở Liên khu 5 trước đây, do kinh phí Nhà nước đài thọ và
đã phục vụ công tác kháng chiến liên tục cho đến khi ra Bắc tập kết thì cũng được
tính là thời gian công tác liên tục.
c. Thời gian tham gia các Đoàn
thanh niên do địa phương tổ chức để làm các công tác ở địa phương, không thoát
ky kinh tế gia đình thì không được tính. Thời gian phục vụ ở các đơn vị do Đoàn
thanh niên tổ chức để phục vụ công tác đột xuất rồi lại giải tán về địa phương
thì xem như đi làm nghĩa vụ mà không được tính là thời gian công tác.
10. Thời
gian làm nghĩa vụ quân sự, dân công
a. Quân nhân nghĩa vụ khi hết thời
hạn được chuyển ngay sang cơ quan, xí nghiệp Nhà nước hoặc đã về địa phương một
thời gian rồi mới được tuyển vào cơ quan, xí nghiệp đều được cộng cả thời gian
làm nghĩa vụ quân sự với thời gian làm việc ở cơ quan, xí nghiệp để tính là thời
gian công tác liên tục.
b. Công nhân, viên chức đang
công tác được gọi đi làm nghĩa vụ quân sự, sau đó lại trở về cơ quan, xí nghiệp
thì xem như vẫn liên tục công tác.
c. Thời gian làm nghĩa vụ dân
công, sau đó được lấy vào làm việc ở cơ quan, xí nghiệp, không được tính là thời
gian công tác. Riêng thời gian đi dân công hoả tuyến, phục vụ các chiến trường,
sau đó được lấy vào làm việc ở cơ quan, xí nghiệp thì được tính là thời gian
công tác liên tục.
11. Thời gian phục vụ công tác đột
xuất
a. Thời gian công nhân, viên chức
được điều động đi làm các công tác thuế, chống hạn, chống lụt, đi phát động quần
chúng giảm tô, cải cách ruộng đất, cải tiến quản lý hoạt tác xã v.v... đều được
tính là thời gian công tác liên tục.
b. Cán bộ xã được huy động đi
làm các công tác đột xuất, tiếp theo đó được lấy vào làm việc ở cơ quan, xí
nghiệp được tính thời gian công tác liên tục từ ngày đi làm công tác đột xuất.
12. Thời
gian nghỉ việc do yêu cầu của tổ chức, nghỉ việc vì mất sức lao động, thời gian
đi an dưỡng, thời gian ở trại thương binh
a. Do đặc điểm tình hình của nước
ta, có những trường hợp do yêu cầu tổ chức, công nhân, viên chức được cơ quan,
xí nghiệp cho thôi việc vì giản chính, giảm nhẹ biên chế, kiện toàn tổ chức và
quân nhân tình nguyện được phục viên hoặc giải ngũ, sau được tuyển dụng trở lại
làm việc ở cơ quan, xí nghiệp, nếu trong thời gian nghỉ việc vẫn nghiêm chỉnh
chấp hành mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước thì được cộng thời
gian đã công tác trước khi nghỉ việc với thời gian trở lại công tác sau này để
tính là thời gian công tác liên tục (trừ thời gian nghỉ việc không tính).
b. Trường hợp công nhân, viên chức
đã nghỉ việc hưởng chế độ trợ cấp mất sức lao động, cán bộ miền Nam tập kết đã
đi an dưỡng, điều dưỡng hưởng chế độ trợ cấp theo chỉ thị số 1000-TTg ngày
5-8-1956 của Thủ tướng Chính phủ, thương binh về xã tự túc hay ở Trại thương
binh sau khi trở lại làm việc ở cơ quan, xí nghiệp cũng được cộng thời gian đã
công tác trước khi nghỉ việc với thời gian trở lại công tác sau này để tính là
thời gian công tác liên tục (trừ thời gian nghỉ việc ở trại an dưỡng, điều dưỡng,
Trại thương binh về xã tự túc thì không tính).
c. Còn những
trường hợp không do yêu cầu của tổ chức mà công nhân, viên chức tự ý xin thôi
việc, quân nhân xin giải ngũ vì hoàn cảnh riêng, sau được trở lại làm việc thì
thời gian công tác trước khi nghỉ việc hoặc giải ngũ không được tính là thời
gian công tác liên tục mà chỉ được tính là thời gian công tác nói chung (thời
gian nghỉ việc không tính). Riêng đối với cán bộ đã hoạt động cách mạng từ
trước ngày 19-8-1945 và công nhân, viên chức đã tham gia kháng chiến và được tặng
thưởng Huân chương và Huy chương kháng chiến, Huân chương hay Huy chương chiến
thắng thuộc đối tượng thi hành của Thông tư số 84-TTg ngày 20-8-1963 của Hội đồng
Bộ trưởng, nếu có trường hợp vì hoàn cảnh riêng phải tạm thời nghỉ việc thì được
áp dụng theo Điều 2 phần II đã nói ở trên.
13. Thời
gian nghỉ phép, nghỉ ốm đau, vì tai nạn lao động
a. Thời gian công nhân, viên chức
tạm nghỉ có lý do chính đáng: nghỉ hàng năm, nghỉ đẻ, nghỉ dưỡng sức, nghỉ vì ốm
đau, vì tai nạn lao động, nghỉ phép về việc riêng, nghỉ vì nhà máy, công trường
thiếu nguyên liệu, máy móc hỏng, vì mưa bão, lụt v.v... được cơ quan, xí nghiệp
cho phép hay thầy thuốc chứng nhận đều được tính là thời gian công tác liên tục.
b. Thời gian công nhân, viên chức
tạm thời phải nghỉ việc không hưởng lương hoặc hưởng trợ cấp xã hội, do cơ
quan, xí nghiệp chưa bố trí được công việc (nói tại điểm 4, Thông tư số 195-TTg
ngày 7-7-1977 của Thủ tướng Chính phủ quy định một số chế độ trả lương tạm thời
trong thời chiến, được tính là thời gian công tác liên tục cho đến khi có quy định
mới.
c. Riêng đối với công nhân, viên
chức thực sự làm việc chưa đủ 5 năm mà ốm đau kéo dài phải thôi việc hoặc chết
thì thời gian công tác được tính theo Thông tư số 22-NV ngày 18-8-1969 của Bộ Nội
vụ.
d. Thời gian công nhân, viên chức
nghỉ dài hạn không lương và thời gian tự tiện bỏ việc không được tính là thời
gian công tác. Thời gian công tác trước đó được tính vào thời gian công tác nói
chung, nếu trong khi bỏ việc không có hành động chống đối chính sách, chống phá
cách mạng.
14. Thời
gian ngừng việc vì bị kỷ luật
a. Thời gian công nhân, viên chức
bị tạm đình chỉ công tác, bị tạm giam để chờ truy tố trước toà án hoặc chờ xét
định kỷ luật thì tính như sau:
- Nếu sau khi xét xử mà bị kỷ luật
buộc phải thôi việc, hoặc bị kết án tù ngồi và sau lại được trở lại làm việc
thì thời gian tạm bị đình chỉ công tác hay bị tạm giam nói trên không được tính
là thời gian công tác, còn thời gian trước đó thì được tính là thời gian công
tác nói chung.
- Nếu đặc biệt có trường hợp sau
xét ra là oan thì thời gian bị tạm giam, bị đình chỉ công tác vẫn được tính là
thời gian công tác liên tục. Trường hợp tuy được tha, không bị án tù nhưng
không được tiếp tục công tác, sau này mới lại được trở lại công tác ở cơ quan,
xí nghiệp thì thời gian gián đoạn công tác không được tính, nhưng được cộng thời
gian đã công tác trước khi bị đình chỉ công tác với thời gian trở lại công tác
sau này để tính là thời gian công tác liên tục.
b. Thời gian công nhân, viên chức
đã bị kỷ luật buộc phải thôi việc hoặc đã bị án tù ngồi và sau lại được trở lại
làm việc thì đều không được tính là thời gian công tác, còn thời gian trước đó
chỉ được tính vào thời gian công tác nói chung.
Riêng đối với những cán bộ đã
tham gia cách mạng từ trước ngày 19-8-1945 và những công nhân, viên chức đã có
nhiều thành tích trong kháng chiến, trong lao động sản xuất đã được tặng Huân
chương, Huy chương của Nhà nước, những anh hùng lao động, anh hùng quân đội thì
các Bộ, các ngành ở Trung ương và các uỷ ban hành chính khu, thành, tỉnh cần
cân nhắc kỹ càng và trao đổi với Bộ Nội vụ để xét từng trường hợp cụ thể để cho
tính hoặc không cho tính thời gian trước khi bị kỷ luật là thời gian công tác
liên tục.
c. Thời gian công nhân, viên chức
bị án treo, nếu không bị đình chỉ công tác thì vẫn được tính là thời gian công
tác liên tục.
- Trường hợp bị đình chỉ công
tác, bị tạm giam trước khi bị án treo thì thời gian bị đình chỉ công tác, bị tạm
giam không được tính là thời gian công tác, còn thời gian đã công tác trước đó
vẫn được cộng với thời gian trở lại công tác sau này để tính là thời gian công
tác liên tục.
d. Những trường hợp bị kỷ luật
vì có hoạt động chống phá cách mạng thì thời gian công tác trước khi bị kỷ luật
không được tính (cả thời gian công tác liên tục cũng như thời gian công tác nói
chung) mà chỉ được tính từ khi trở lại làm việc ở cơ quan, xí nghiệp.
15. Thời
gian công tác nửa thoát ly
Thời gian công tác nửa thoát ly ở
xã, chưa tách khỏi kinh tế gia đình thì nói chung không được tính là thời gian
công tác, trừ những trường hợp cụ thể quy định sau đây:
a. Công nhân, viên chức có thời
gian giữ những chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Uỷ viên thư ký hay Uỷ viên thường
trực Uỷ ban hành chính xã, Bí thư, Phó Bí thư, Thường vụ Đảng uỷ xã, Đảng uỷ
viên thường trực (Bí thư, Phó Bí thư, Thường vụ chi uỷ xã, Chi uỷ viên thường
trực phụ trách văn phòng Chi bộ xã ở những xã chưa tổ chức thành Đảng uỷ), xã đội
trưởng, xã đội phó, chính trị viên xã đội, chính trị viên phó xã đội (nếu có)
tuy không thoát ly kinh tế gia đình nhưng đã thực sự công tác, tiếp theo đó được
điều động lên làm việc ở cơ quan, xí nghiệp Nhà nước hay vào bộ đội, thì thời
gian giữ các chức vụ trên được tính là thời gian công tác liên tục.
Nếu trong thời gian giữ những chức
vụ trên có bị gián đoạn một thời gian ngắn (có lý do chính đáng) sau lại tiếp tục
giữ những chức vụ đó hoặc được đi công tác thoát lý thì cần phải xét từng trường
hợp cụ thể để giải quyết.
b. Công nhân, viên chức có thời
gian giữ những chức vụ uỷ viên uỷ ban hành chính xã, đảng uỷ viên xã (chi uỷ
viên chi bộ xã ở những xã không tổ chức thành Đảng uỷ), trưởng, phó các ngành,
các giới ở xã, giao thông viên xã, du kích xã, thì thời gian giữ các chức vụ
trên được tính là thời gian công tác nói chung.
Riêng du kích đã thoát ly, tập
trung lên huyện, do huyện cung cấp sinh hoạt phí và chịu sự điều động của huyện
(như bộ đội địa phương) tiếp theo đó được bổ sung vào bộ đội chính quy hay được
tuyển vào cơ quan xí nghiệp Nhà nước, thì thời gian công tác liên tục được tính
kể từ ngày thoát ly, tập trung lên huyện.
c. Cán bộ xã đang giữ những chức
vụ nói ở đoạn a trên được đi học chuyên môn, kỹ thuật, chính trị, văn hoá...,
sau đó được tuyển vào cơ quan, xí nghiệp Nhà nước thì thời gian công tác liên tục
được tính kể từ ngày giữ những chức vụ đó.
d. Cán bộ xã đang giữ những chức
vụ nói ở đoạn b, trên được đi học chuyên môn kỹ thuật, chính trị, văn hoá...,
sau đó được tuyển vào cơ quan, xí nghiệp Nhà nước thì thời gian công tác liên tục
được tính kể từ ngày được tuyển dụng vào cơ quan, xí nghiệp; thời gian công tác
làm công tác nửa thoát ly ở xã trước khi đi học được tính là thời gian công tác
nói chung như đã quy định ở đoạn b, thời gian đi học không được tính là thời
gian công tác.
16. Thời
gian ở Hợp tác xã, ở tập đoàn sản xuất
a. Thời gian là xã viên các hợp
tác xã là đoàn viên các tập đoàn sản xuất, tập đoàn vận tải, bốc xếp v.v...
(thuộc khu vực kinh tế tập thể) trước khi là công nhân, viên chức Nhà nước thì
không được tính là thời gian công tác, trừ trường hợp là cán bộ Nhà nước được cử
về phụ trách hợp tác xã vẫn hưởng mọi chế độ như công nhân, viên chức Nhà nước,
thì thời gian phụ trách hợp tác xã vẫn được tính là thời gian công tác.
b. Riêng đối với một số cán bộ,
công nhân, viên chức, quân nhân miền Nam tập kết vì yêu cầu của Tổ chức được đi
sản xuất ở các tập đoàn sản xuất do Uỷ ban Thống nhất quản lý, sau đó các Tập
đoàn sản xuất đã chuyển thành xí nghiệp hoặc nông trường quốc doanh và các anh
chị em nói trên vẫn liên tục công tác ở cơ sở sản xuất đó cho đến nay lại là
công nhân, viên chức Nhà nước thì thời gian sản xuất ở các Tập đoàn sản xuất đó
cũng như thời gian công tác trước đó đều được tính là thời gian công tác liên tục.
Những công nhân, viên chức trước là cán bộ xã miền Nam (kể cả cán bộ thôn, xóm
hoặc gia đình cán bộ) khi tập kết ra Bắc được bố trí đi sản xuất ở các Tập đoàn
sản xuất do uỷ ban thống nhất quản lý và vẫn làm việc liên tục cho đến nay là
công nhân, viên chức của xí nghiệp Nông trường quốc doanh như đã nói ở trên thì
thời gian sản xuất ở các Tập đoàn đó cũng được tính là thời gian công tác liên
tục.
c. Những cán bộ, công nhân, viên
chức quân nhân miền Nam tập kết sau khi được cơ quan, đơn vị cho nghỉ việc vì
giảm nhẹ biên chế, vì phục viên, tự động đứng ra tổ chức những Tập đoàn sản xuất
hoặc hợp tác xã, không do Uỷ ban Thống nhất quản lý thì thời gian công tác trước
khi nghỉ việc vẫn được cộng với thời gian trở lại công tác sau này để tính là
thời gian công tác liên tục.
d. Những cán bộ, công nhân, viên
chức, quân nhân miền Nam tập kết được bố trí đi sản xuất ở các Tập đoàn sản xuất
(do Uỷ ban Thống nhất quản lý) nhưng nửa chừng đã bỏ Tập đoàn, ra ngoài làm ăn
tự do, sau lại được vào làm việc ở cơ quan, xí nghiệp Nhà nước thì thời gian ở
Tập đoàn không được tính là thời gian công tác, còn thời gian công tác liên tục
cũng được tính như trường hợp nói ở đoạn c trên đây. Nhưng nếu đang ở Tập đoàn
sản xuất lại được tuyển vào cơ quan, xí nghiệp Nhà nước thì thời gian sản xuất ở
Tập đoàn vẫn được cộng với thời gian đã công tác trước và sau này để tính là thời
gian công tác liên tục.
đ. Cách tính thời gian công tác ở
Tập đoàn sản xuất miền Nam như đã nói trên đây chỉ áp dụng đối với cán bộ, công
nhân, viên chức, quân nhân là người miền Nam tập kết; nhưng nếu có những anh chị
em là người miền Bắc, do yêu cầu cần thiết được bố trí sản xuất ở các Tập đoàn
sản xuất miền Nam thì cần xét từng trường hợp cụ thể để giải quyết.
17. Thời
gian làm việc ở các xí nghiệp công tư hợp doanh
a. Công nhân, viên chức trước
đây làm việc ở các xí nghiệp của chủ tư nhân trong vùng tạm bị chiếm sau khi giải
phóng các thành phố, vẫn tiếp tục làm việc cho đến nay các xí nghiệp đó đã trở
thành xí nghiệp công tư hợp doanh thì:
- Thời gian làm việc cho các xí
nghiệp, cửa hàng của chủ tư nhân trong thời kỳ tạm chiếm được tính vào thời
gian công tác nói chung; nếu có hoạt động chống phá cách mạng thì không được
tính.
- Thời gian công tác liên tục chỉ
được tính từ ngày Chính phủ tiếp quản địa phương.
b. Công nhân, viên chức làm việc
ở các xí nghiệp tư nhân ở vùng tự do, nay các xí nghiệp đó đã trở thành xí nghiệp
công tư hợp doanh, thời gian công tác nói chung được tính từ ngày làm việc ở xí
nghiệp, thời gian công tác liên tục được tính từ ngày hoà bình lập lại
(20-7-1954) nếu vẫn làm việc liên tục ở xí nghiệp đó.
c. Công nhân, viên chức ở các cơ
quan, xí nghiệp, Nhà nước được điều động sang công tác ở các xí nghiệp công tư
hợp doanh thì coi như vẫn liên tục công tác.
d. Những người tiểu chủ và tư sản
ở các xí nghiệp, cửa hàng công tư hợp doanh được tính thời gian công tác liên tục
kể từ ngày được xếp việc và thực sự làm việc liên tục cho xí nghiệp, cửa hàng
đó. Nếu có trường hợp được điều động từ xí nghiệp này sang xí nghiệp khác thì
coi như vẫn liên tục công tác.
đ. Vợ, con của người tư sản làm
việc ở xí nghiệp, cửa hàng từ trước ngày vào công tư hợp doanh, khi xí nghiệp,
cửa hàng đó còn thuộc quyền sở hữu của gia đình họ thì thời gian đó không được
tính thời gian công tác. Thời gian công tác liên tục đối với những người này
cũng chỉ được tính từ ngày được xếp việc và thực sự làm việc liên tục cho xí
nghiệp, cửa hàng sau khi đã đưa vào công tư hợp doanh.
18. Thời
gian công tác của giáo viên phổ thông
Thời gian công tác của giáo viên
phổ thông cũng tính theo các quy định chung đối với công nhân, viên chức Nhà nước.
Riêng một số điểm được quy định cụ thể như sau:
a. Thời gian dạy học ở nhà tư
(do cha mẹ học sinh nuôi thầy dậy học trong nhà) không được tính là thời gian
công tác.
b. Thời gian làm hương sư dưới
chế độ cũ có lương tháng (bằng tiền hoặc bằng thóc) được tính là thời gian công
tác nói chung.
c. Thời gian dạy ở các trường tư
thục trước cách mạng tháng 8-1945 hoặc ở vùng tạm bị chiếm trong thời kỳ kháng
chiến chống Pháp có lương tháng và lấy lương đó làm nguồn sống chính (không có
cổ phần ở trường, chỉ có tính chất làm công ăn lương) được tính là thời gian
công tác nói chung; thời gian công tác liên tục chỉ được tính từ ngày Chính phủ
tiếp quản địa phương. Những người làm hiệu trưởng danh nghĩa (không tham gia giảng
dạy) hoặc tự bỏ vốn mở trường tư thục thuê giáo viên thuê giáo viên đến dạy (có
tính chất kinh doanh), mặc dù bản thân cũng tham gia giảng dạy, thì những thời
gian đó không được tính là thời gian công tác.
d. Thời gian dạy ở các trường tư
thục ở vùng tự do, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, được Uỷ ban hành chính
địa phương cho phép tự thu lấy học phí của học sinh để làm nguồn sống chính, được
tính là thời gian công tác nói chung. Thời gian công tác liên tục chỉ được tính
từ ngày trường học được chuyển sang cho 1 đoàn thể (trong Mặt trận Liên Việt)
quản lý, hoặc kể từ ngày được chuyển sang chế độ dân lập (nếu chuyển trước ngày
hoà bình lập lại) hoặc kể từ ngày hoà bình lập lại (nếu người giáo viên vẫn còn
tiếp tục giảng dạy theo chế độ tư thục như nói ở trên).
đ. Thời gian làm giáo viên dân lập
được Uỷ ban hành chính từ cấp huyện trở lên công nhận được tính là thời gian
công tác liên tục, nếu vẫn liên tục công tác.
19. Thời
gian công tác của công nhân, viên chức trước là kiều bào ở nước ngoài.
a. Công nhân, viên chức trước là
kiều bào ở các nước tư bản, đã có thời gian làm công ăn lương ở các cơ quan, xí
nghiệp, thì cách tính thời gian công tác nói chung cũng giống như cách tính đối
với công nhân, viên chức trong nước có thời gian làm việc dưới chế độ cũ quy định
ở điểm 3 phần II của Thông tư này. Còn thời gian công tác liên tục chỉ được
tính từ khi được tuyển dụng vào cơ quan, xí nghiệp Nhà nước ta.
Nếu khi ở nước ngoài, công nhân,
viên chức là kiều bào hoạt động thực sự cho phong trào cách mạng (là cán bộ
cách mạng hoạt động bí mật) nay về nước lại tiếp tục công tác ở các cơ quan, xí
nghiệp Nhà nước ta thì tất cả thời gian hoạt động cách mạng ở nước ngoài cũng
được tính là thời gian công tác liên tục.
b. Công nhân, viên chức trước là
kiều bào ở các nước xã hội chủ nghĩa, khi còn ở nước bạn đã làm việc ở các cơ
quan, xí nghiệp Nhà nước xã hội chủ nghĩa, sau khi về nước lại được tuyển dụng
vào cơ quan, xí nghiệp của ta thì thời gian làm việc liên tục ở các cơ quan, xí
nghiệp Nhà nước xã hội chủ nghĩa trước khi về nước cũng được tính là thời gian
công tác liên tục.
20. Thời
gian công tác của công nhân, viên chức là ngoại kiều
a. Công nhân, viên chức là ngoại
kiều thuộc các nước tư bản khi còn ở nước họ đã có thời gian làm công ăn lương ở
các cơ quan, xí nghiệp thì cách tính thời gian công tác nói chung cũng giống
như cách tính đối với công nhân, viên chức Việt Nam làm việc dưới chế độ cũ quy
định ở điểm 3 phần II của Thông tư này. Còn thời gian công tác liên tục chỉ được
tính từ khi làm việc ở các cơ quan, xí nghiệp của nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà.
b. Công nhân, viên chức là ngoại
kiều thuộc các nước xã hội chủ nghĩa khi ở trong nước đã có thời gian công tác ở
các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước (xã hội chủ nghĩa), khi sang Việt Nam lại được
tuyển dụng ngay vào cơ quan, xí nghiệp Nhà nước ta thì những thời gian đó được
coi là thời gian công tác liên tục.
21. Tính thời
gian công tác về những tháng lẻ
a. Khi xét điều kiện về thời
gian công tác để giải quyết cho công nhân, viên chức hưởng các chế độ hưu trí,
chế độ thôi việc vì mất sức lao động, chế độ tiền tuất hàng tháng thì tính 1 năm
phải đủ 12 tháng, 5 năm phải đủ 60 tháng. Nhưng khi người công nhân, viên chức
đã có đủ điều kiện để hưởng các chế độ nói trên rồi, thì khi xét để tính mức trợ
cấp, phải căn cứ vào thời gian công tác liên tục, nếu có những tháng lẻ sẽ tính
gọn như sau:
- Dưới 1 tháng không tính
- Từ 1 tháng đến 7 tháng tính là
nửa năm
- Trên 7 tháng, tính là đủ năm.
Thí dụ: Một viên chức đủ 60 tuổi,
thời gian công tác nói chung đủ 25 năm, trong đó có 12 năm 8 tháng công tác
liên tục. Viên chức này đã có đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí, thời gian công
tác liên tục được tính chẵn 13 năm để tính tỷ lệ trợ cấp; Nhưng nếu người đó chỉ
có 12 năm 29 ngày công tác liên tục thì chỉ tính chẵn là 12 năm công tác liên tục
thôi.
Một công nhân khác cũng 60 tuổi,
thời gian công tác nói chung 28 năm nhưng thời gian công tác liên tục mới có 4
năm 11 tháng. Trường hợp này không thể dựa vào quy định trên mà tính tròn là 5
năm để cho người đó hưởng chế độ hưu trí được, vì trong những điều kiện để hưởng
chế độ này đã được quy định là phải có đủ 5 năm (tức 60 tháng) công tác liên tục.
b. Các tính tháng lẻ đối với những
người già yếu mất sức lao động phải thôi việc nhưng không có đủ 5 năm công tác
liên tục, chỉ được trợ cấp 1 lần theo Điều 40 của Điều lệ bảo hiểm xã hội cũng
tính như trên.
Thí dụ: Một công nhân phải thôi
việc vì mất sức lao động có 3 năm 3 tháng công tác liên tục thì được coi như 3
năm rưỡi và được trợ cấp 1 lần bằng 3 tháng rưỡi lương kể cả phụ cấp và trợ cấp
con (nếu có); nhưng nếu người đó có 4 năm 9 tháng công tác liên tục thì được
coi như 5 năm để được trợ cấp 1 lần bằng 5 tháng lương, kể cả phụ cấp và trợ cấp
con (nếu có) chứ không được coi như đủ điều kiện hưởng trợ cấp hàng tháng.
Việc tính thời gian công cho
công nhân, viên chức là một chính sách lớn, liên quan đến nhiều chính sách khác
và bao gồm nhiều vấn đề phức tạp, nếu làm không tốt sẽ ảnh hưởng đến tinh thần,
tư tưởng công nhân, viên chức, đến đoàn kết nội bộ, đến chính sách cán bộ của Đảng
và Nhà nước. Vì vậy, Bộ Nội vụ lưu ý các Bộ, các cơ quan, đoàn thể Trung ương
và các Uỷ ban hành chính địa phương cần có kế hoạch lãnh đạo thật thật chặt chẽ,
hướng dẫn các cơ quan, xí nghiệp thấy hết khó khăn phức tạp của vấn đề để nắm
thật vững tinh thần, nội dung của chính sách, tiến hành cho chu đáo, thận trọng
và chính xác.
Trong khi thi hành, nếu có trường
hợp chưa được quy định trong Thông tư này hoặc có những trường hợp cụ thể cần
cân nhắc kỹ, đề nghị các cơ quan, đoàn thể Trung ương và các Uỷ ban hành chính
địa phương trao đổi với Bộ Nội vụ để góp ý kiến giải quyết.
Thông tư này thay cho những văn
bản và những đoạn văn bản sau đây:
- Thông tư Liên Bộ Nội vụ - Lao
động số 9-TT/LB ngày 17-2-1962 hướng dẫn và quy định cụ thể về việc tính thời
gian công tác của công nhân, viên chức.
- Thông tư số 18-NV ngày
23-6-1964 của Bộ Nội vụ hướng dẫn và quy định việc tính tháng lẻ của thời gian
công tác liên tục đối với công nhân, viên chức Nhà nước.
- Công văn số 640-TBHT ngày
9-3-1966 của Bộ Nội vụ về việc tính thời gian công tác cho công nhân, viên chức
để được hưởng các chế độ hưu trí, mất sức lao động, tiền tuất.
- Thông tư số 5-NV ngày
27-5-1970 của Bộ Nội vụ hướng dẫn việc tính thời gian công tác cho quân nhân
nghĩa vụ để hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội.
- Điểm 3 (cách tính thời gian công
tác liên tục) trong phần I của Thông tư số 10-NV ngày 26-3-1964 của Bộ Nội vụ
hướng dẫn thi hành Thông tư số 84-TTg ngày 20-8-1963 của Hội đồng Chính phủ về
chế độ trợ cấp hưu trí và trợ cấp thôi việc vì mất sức lao động đối với công
nhân, viên chức Nhà nước.
- Điểm 1 Công văn số 1474-TBAT
ngày 26-4-1965 của Bộ Nội vụ hướng dẫn cách tính thời gian công tác đối với cán
bộ miền Nam có thời gian đi sản xuất Tập đoàn và công nhân, viên chức là bộ đội
chuyển ngành, thương binh.
- Đoạn quy định về cách tính thời
gian công tác trong điểm 2 của Thông tư số 6-NV ngày 6-4-1968 của Bộ Nội vụ hướng
dẫn thi hành các chế độ hưu trí, trợ cấp mất sức lao động, tiền tuất đối với
giáo viên dân lập cấp I.