BỘ TÀI CHÍNH
-----
|
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG
HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------
|
Số : 14-TC/CNXD
|
Hà Nội, ngày 01
tháng 08 năm 1974
|
THÔNG
TƯ
HƯỚNG
DẪN THI HÀNH ĐIỀU LỆ TẠM THỜI VỀ PHÂN PHỐI LỢI NHUẬN XÍ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP QUỐC
DOANH, BAN HÀNH KÈM THEO NGHỊ ĐỊNH SỐ 236-CP NGÀY 10-12-1970 CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH
PHỦ [1]
Ngày 10 tháng 12 năm
1970, Hội đồng Chính phủ đã ra nghị định số 236-CP ban hành Điều lệ tạm thời về
phân phối lợi nhuận xí nghiệp công nghiệp quốc doanh.
Sau đó, Thủ tướng
Chính phủ đã ra chỉ thị số 165-TTg ngày 10-6-1971 về việc thực hiện chế độ phân
phối lợi nhuận xí nghiệp công nghiệp quốc doanh, qua một năm thí điểm. Hội đồng
Chính phủ ra thông tư số 88-CP ngày 2-5-1972 về việc sửa đổi và bổ sung những
quy định cụ thể về phân phối lợi nhuận và trích lập 3 quỹ trong điều lệ tạm thời
phân phối lợi nhuận xí nghiệp công nghiệp quốc doanh[2].
Bộ Tài chính quy định
chi tiết và hướng dẫn việc thi hành cụ thể các văn kiện trên của Chính phủ như
sau.
Phần thứ nhất
LỢI NHUẬN
XÍ NGHIỆP VÀ PHÂN PHỐI LỢI NHUẬN
I.
LỢI NHUẬN XÍ NGHIỆP
1. Nội dung cụ thể về
lợi nhuận xí nghiệp đã được quy định ở các điều 3, 5, 6, 7 của Điều lệ tạm thời
về phân phối lợi nhuận xí nghiệp công nghiệp quốc doanh. Riêng về lợi nhuận kế
hoạch cần hiểu đầy đủ là số lợi nhuận kế hoạch của xí nghiệp về nguyên tắc phải
bằng hoặc cao hơn số kiểm tra của Nhà nước (Bộ chủ quản) giao cho xí nghiệp.
Nhà nước khuyến khích xí nghiệp xây dựng lợi nhuận kế hoạch cao hơn số kiểm tra
của Nhà nước - đó là lợi nhuận kế hoạch đăng ký cao.
Lợi nhuận kế hoạch (kể
cả lợi nhuận đăng ký cao) được cơ quan quản lý cấp trên (có thẩm quyền) xét duyệt
là chi tiêu pháp lệnh.
2. Đối với các xí
nghiệp được duyệt là không có lãi hoặc có kế hoạch lỗ (lỗ do chính sách giá cả
của Nhà nước hay do nguyên nhân khác được Nhà nước công nhận) thì chi tiêu lợi
nhuận kế hoạch và lợi nhuận vượt kế hoạch là như sau:
- “Số hạ giá thành kế
hoạch so với giá thành thực tế năm trước được coi như lợi nhuận kế hoạch” (điều
10 của Điều lệ tạm thời).
- “Số tiết kiệm do hạ
giá thành thực tế được nhiều hơn so với giá thành kế hoạch được coi như lợi nhuận
vượt kế hoạch” (điều 12 của Điều lệ tạm thời).
3. Để áp dụng chính
sách phân phối lợi nhuận có phân biệt khác nhau, khi tính toán lợi nhuận kế hoạch
cũng như khi hạch toán lợi nhuận thực tế, cần phân biệt:
- Phần lợi nhuận kinh
doanh cơ bản, phần lợi nhuận ngoài kinh doanh cơ bản và các khoản lợi nhuận
khác;
- Phần lợi nhuận do
tiêu thụ hàng hóa sản xuất bằng phế liệu.
II.
PHÂN PHỐI LỢI NHUẬN XÍ NGHIỆP
1. Lợi nhuận xí
nghiệp phân phối như sau:
- Trích nộp ngân sách
Nhà nước;
- Trích lập quỹ khuyến
khích phát triển sản xuất;
- Trích lập quỹ khen
thưởng;
- Trích lập quỹ phúc
lợi;
- Tham gia đầu tư vốn
cố định theo kế hoạch;
- Bổ sung vốn lưu động
định mức cần tăng thêm theo kế hoạch;
- Trả nợ vay ngân
hàng để cải tiến kỹ thuật và hợp lý hoá sản xuất (trích từ lợi nhuận vượt kế hoạch).
2. Lợi nhuận kế hoạch
phân phối có phân biệt theo hai trường hợp sau đây:
a) Nếu lợi nhuận kế
hoạch được duyệt theo số kiểm tra, thì phân phối như sau:
- Trích lập quỹ khuyến
khích phát triển sản xuất, (xem quy định ở Phần thứ hai, mục I sau đây, nói về
trích lập và sử dụng quỹ khuyến khích phát triển sản xuất);
- Trích lập quỹ khen
thưởng và quỹ phúc lợi bằng một tỷ lệ phần trăm quy định trên quỹ lương của
nhân viên sản xuất ở xí nghiệp (xem quy định mức trích và đối tượng được trích ở
điểm 2 của thông tư số 88-CP ngày 2-5-1972 và ở Phần thứ hai, mục II của thông
tư giải thích này);
- Tham gia đầu tư vốn
cố định và bổ sung vốn lưu động định mức cần tăng thêm căn cứ theo yêu cầu cụ
thể của kế hoạch năm đã được Nhà nước duyệt. (Xem quy định ở điểm 9 của thông
tư số 88-CP ngày 2-5-1972 và phần giải thích của thông tư này: phần thứ hai, mục
III);
- Trích nộp ngân sách
Nhà nước (số lợi nhuận còn lại sau khi đã tinh trích các khoản kể trên). Xí
nghiệp có nghĩa vụ nộp đủ số lợi nhuận kế hoạch và vượt kế hoạch (nếu có). Nếu
không hoàn thành đủ số lợi nhuận kế hoạch đã giao cho xí nghiệp phải trích nộp
ngân sách thì xí nghiệp phải ghi nợ lại ngân sách số thiếu hụt, và năm sau phải
phấn đấu lấy lợi nhuận vượt kế hoạch để nộp bù cho đủ số thiếu năm trước.
b) Nếu lợi nhuận kế
hoạch được duyệt là lợi nhuận kế hoạch đăng ký cao (xí nghiệp xây dựng kế hoạch
lợi nhuận cao hơn số kiểm tra), thì phần lợi nhuận tính theo số điểm tra của
Nhà nước được phân phối theo như nói ở điểm a trên đây; còn phần lợi nhuận
(đăng ký thêm) cao hơn số kiểm tra được phân phối như sau:
- Trích vào quỹ khen
thưởng 15%;
- Trích vào quỹ phúc
lợi 15%; trường hợp xí nghiệp đăng ký kế hoạch lợi nhuận cao, nhưng không hoàn
toàn đủ mức đã đăng ký, nếu số lợi nhuận thực tế làm ra vẫn còn cao hơn số lợi
nhuận kế hoạch tính theo số kiểm tra , thì phần chênh lệch cao hơn đó được phân
phối như sau: nếu hoàn thành trên 50% mức đăng ký cao, thì được trích thêm cho
mỗi quỹ (quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi): 10%, nếu hoàn thành dưới 50% mức
đăng ký cao, thì được trích thêm cho mỗi quỹ (quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi):
5%;
- Trích vào quỹ khuyến
khích phát triển sản xuất đúng theo mức doanh lợi tăng (như quy định ở thông tư
số 88-CP ngày 2-5-1972);
- Sau khi đã trích đủ
phần ấn định cho 3 quỹ thì nộp vào ngân sách Nhà nước phần lợi nhuận đăng ký
thêm còn lại; nếu không hoàn thành mức phải nộp thì cũng phải ghi nợ ngân sách
và trang trải trong các năm sau.
3. Lợi nhuận vượt
kế hoạch. – Phần lợi nhuận vượt kế hoạch kể cả lợi nhuận vượt kế hoạch
theo số kiểm tra (không đăng ký cao) và lợi nhuận vượt kế hoạch theo số đăng ký
cao được phân phối như sau:
- Trích vào quỹ khen
thưởng 5%;
- Trích vào quỹ phúc
lợi 5%;
- Trích vào quỹ khuyến
khích phát triển sản xuất, tính theo mức doanh lợi tăng quy định đối với quỹ
này;
- Trả nợ tiền vay
Ngân hàng Nhà nước (nếu có vay) để hợp lý hóa sản xuất và cải tiến kỹ thuật
theo chế độ và kế hoạch Nhà nước quy định;
- Trích nộp ngân sách
Nhà nước.
4. Xí nghiệp tận dụng
phế liệu để sản xuất thêm mặt hàng phụ theo đúng chế độ quy định của Nhà nước,
được hạch toán riêng số lợi nhuận thu được do tiêu thụ hàng hóa đó và được phân
phối số lợi nhuận này như sau:
- Nộp vào ngân sách
Nhà nước
20%
- Trích vào quỹ khuyến
khích phát triển sản xuất 40%
- Trích vào quỹ khen
thưởng
20%
- Trích vào quỹ phúc
lợi
20%
Nếu xí nghiệp đảm bảo
đủ các điều kiện sau đây: - hoàn thành kế hoạch lợi nhuận chính (phần kinh
doanh cơ bản và ngoài kinh doanh cơ bản); - hoàn thành nhiệm vụ nộp thuế hoặc
thu quốc doanh đối với những mặt hàng phụ sản xuất bằng phế liệu theo chế độ của
Nhà nước. - chấp hành đúng chế độ quy định của Nhà nước về sử dụng phế liệu; tổ
chức hạch toán rõ ràng, không để lẫn lộn giữa sản xuất kinh doanh cơ bản với sản
xuất mặt hàng phụ bằng phế liệu.
5. Nếu xí nghiệp
không hoàn thành kế hoạch lợi nhuận, thì số lợi nhuận thực tế phải phân phối
theo trật tự ưu tiên như sau:
a) Trước hết, phải
trích nộp vào ngân sách Nhà nước đủ số phải nộp tính theo kế hoạch đã được duyệt;
b) Trích đủ số tiền cần
thiết để tham gia đầu tư vốn cố định và bổ sung vốn lưu động định mức cần tăng
thêm, theo đúng kế hoạch đã được duyệt; nếu không có đủ thì phải vay ngân hàng
để đảm bảo đủ số vốn theo kế hoạch đã định;
c) Trích lập quỹ khuyến
khích phát triển sản xuất (nếu còn đủ thì trích đủ, còn ít thì trích bớt đi, không
còn thì không trích);
d) Trích vào quỹ khen
thưởng và quỹ phúc lợi số lợi nhuận còn lại (nếu còn).
Nếu lợi nhuận thực tế
quá ít, không đủ đảm bảo đủ số phải nộp ngân sách theo kế hoạch, thì phải ghi số
thiếu thành nợ ngân sách, và năm sau (hoặc các năm sau) xí nghiệp phải ra sức
phấn đấu lấy lợi nhuận đăng ký cao và lợi nhuận vượt kế hoạch để trả nợ cho
ngân sách Nhà nước.
Phần thứ hai
TRÍCH LẬP
VÀ SỬ DỤNG CÁC KHOẢN ĐƯỢC PHÂN PHỐI
I.
TRÍCH LẬP VÀ SỬ DỤNG QUỸ KHUYẾN KHÍCH PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT.
1. Xí nghiệp trích lập
quỹ khuyến khích phát triển sản xuất theo như quy định của thông tư của Hội
đồng Chính phủ số 88-CP ngày 2-5-1972 ở đoạn 1, điểm b, và sử dụng quỹ khuyến
khích phát triển sản xuất theo như quy định ở đoạn 1, điểm a của thông tư nói trên.
2. Số tiền được trích
hàng năm là một tỷ lệ phần trăm của toàn bộ giá trị tài sản cố định (theo
nguyên giá) của xí nghiệp; đối với:
- Các xí nghiệp cơ
khí
0,8%
- Các xí nghiệp hoá
chất và phân bón
0,7%
- Các xí nghiệp vật dụng,
dệt, dược phẩm
vật liệu xây dựng, thực
phẩm
0,6%
- Các xí nghiệp khai
khoáng
0,4%
- Các xí nghiệp điện
lực
0,3%
Số tiền được trích
trên đây là số được trích cơ bản.
Tuỳ theo tình hình
tăng hay giảm tỷ suất doanh lợi của xí nghiệp, như giải thích dưới đây, xí nghiệp
sẽ được trích thêm cho quỹ khuyến khích phát triển sản xuất, hoặc phải rút bớt
số được trích cơ bản; cứ tăng được một phần trăm (1%) tỷ suất doanh lợi thì được
trích thêm 10% số được trích cơ bản; ngược lại, nếu tỷ suất doanh lợi của xí
nghiệp giảm đi 1% thì phải rút bớt số được trích cơ bản đi 10%.
Tỷ suất doanh lợi của
xí nghiệp được tính theo công thức:
Tỷ suất doanh lợi
xí nghiệp (%)
|
=
|
Lợi nhuận
|
X 100
|
Vốn sản xuất
|
Lợi nhuận là toàn bộ
các khoản lợi nhuận sau khi đã trừ các khoản lỗ và các khoản phải trừ
theo chế độ.
Vốn sản xuất là toàn
bộ tài sản cố định (nguyên giá) cộng (+) toàn bộ giá trị tài sản lưu động định
mức, trừ (-) vốn vay ngân hàng.
Trong năm đầu tiên thực
hiện điều lệ này thì lấy tỷ suất doanh lợi thực tế so với tỷ suất doanh lợi kế
hoạch. Từ năm thứ hai trở đi thì so sánh tỷ suất doanh lợi thực tế của năm kế
hoạch với tỷ suất doanh lợi thực tế năm trước.
Tỷ suất doanh lợi kế
hoạch được tính theo công thức:
Tỷ suất doanh lợi kế
hoạch (%)
|
=
|
Lợi nhuận kế hoạch
|
X 100
|
Vốn sản xuất kế hoạch
|
Lợi nhuận kế hoạch là: tổng số lợi nhuận lấy
ở dòng 16 - Biểu 26-KH/CN phần I “kế hoạch tích luỹ và phân phối lợi nhuận”.
Vốn sản xuất kế hoạch
là:
tổng giá trị tài sản cố định kỳ này (dòng 4 - Biểu 24-KH/CN) cộng (+) với tổng
cộng định mức kế hoạch vốn lưu động (Biểu 25-KH/CN, phần I). Hoặc là lấy từ số
tổng cộng “Tài sản định mức” kế hoạch phần B của bảng tổng kết tài sản trừ (-)
đi vốn vay ngân hàng về tài sản lưu động định mức. (Biểu 24-KH/CN; 25-KH/CN;
26-KH/CN ban hành theo quyết định số 150-TTg ngày 17-5-1971).
Tỷ suất doanh lợi thực
tế được tính theo công thức:
Tỷ suất doanh lợi
thực tế (%)
|
=
|
Lợi nhuận thực tế
|
X 100
|
Vốn sản xuất thực tế
|
[Lợi nhuận thực tế
là: giá trị nguyên thuỷ tài sản cố định (dòng 8, cuối kỳ, của Bảng tổng kết
tài sản năm) cộng (+) với toàn bộ giá trị tài sản lưu động định mức thực tế
(dòng 49) cuối kỳ, cộng (+) loại B, của Bảng tổng kết tài sản năm rồi trừ (-)
các khoản vay ngân hàng trong định mức và ngoài định mức về tài sản lưu động định
mức.]
4. Hàng năm khi lập kế
hoạch sản xuất – kỹ thuật – tài chính, xí nghiệp phải lập kế hoạch và dự toán sử
dụng quỹ khuyến khích phát triển sản xuất (có ghi rõ bảng kê các công việc làm,
chi phí cho từng việc, thời gian hoàn thành, hiệu quả kinh tế) và phải đăng ký
kế hoạch và dự toán sử dụng quỹ khuyến khích phát triển sản xuất với cơ
quan chủ quản cấp trên xí nghiệp. Dự toán và kế hoạch sử dụng quỹ khuyến khích
phát triển sản xuất phải được ghi vào ở các mẫu biểu tổng hợp do Nhà nước đã
quy định là:
Biểu mẫu số 3 “Bảng tổng
hợp kế hoạch tiến bộ kỹ thuật” theo quy định của thông tư liên Bộ số
898-KHKT/CĐ ngày 5 tháng 8 năm 1971.
Biểu 4-KH/CN và biểu
28-KH/CN theo quyết định số 150-TTg ngày 17 tháng 5 năm 1971.
5.Quỹ khuyến khích
phát triển sản xuất được trích hàng tháng (hoặc hàng quý), sau khi đã có báo
cáo quyết toán (bảng tổng kết tài sản) của xí nghiệp.
Nếu xí nghiệp hoàn
thành hay vượt kế hoạch lợi nhuận của tháng đó (quý đó) thì được trích theo
mức kế hoạch phân bố cho quỹ khuyến khích phát triển sản xuất trong tháng
đó (quý đó).
Ví dụ:
- Kế hoạch lợi nhuận
phân bố cho quý I:
500.000đ
- Số định trích cho
quỹ khuyến khích
phát triển sản xuất
quý I theo kế hoạch :
80.000đ.
- Lợi nhuận thực hiện:
600.000đ.
- Quỹ khuyến khích
phát triển sản xuất
được trích:
80.000đ
Nếu xí nghiệp không đạt
lợi nhuận kế hoạch thì chỉ được trích theo mức độ thực hiện kế hoạch lợi nhuận,
nghĩa là lấy tỉ lệ phần trăm thực hiện kế hoạch lợi nhuận của tháng đó, (quý
đó) nhân với (x) số kế hoạch định trích cho quỹ khuyến khích phát triển sản xuất
tháng đó (quý đó).
Ví dụ:
- Kế hoạch lợi nhuận
phân bố cho quý I:
500.000đ
- Kế hoạch trích quỹ
khuyến khích
phát triển sản xuất
quý I:
80.000đ
- Lợi nhuận thực hiện
quý I:
250.000đ
Tỷ lệ thực hiện so với
kế hoạch:
250.000
|
X 100 = 50%
|
500.000
|
- Quỹ khuyến khích
phát triển sản xuất được trích trong quý I:
80.000đ X 50% =
40.000đ
Hàng tháng, hàng quý
xí nghiệp tạm trích như trên đây; đến cuối năm phải tính toán lại theo thực tế
(căn cứ theo các quy định về số được trích cơ bản và số được trích thêm hoặc phải
giảm bớt do doanh lợi tăng hay giảm). Nếu đã trích thừa thì nộp trả ngân sách,
thiếu thì trích thêm.
6. Đối với các xí
nghiệp không có lợi nhuận hoặc có lỗ kế hoạch (do chính sách giá cả của Nhà nước
hay do nguyên nhân khác được Nhà nước công nhận) thì được ngân sách Nhà nước trợ
cấp số vốn cần thiết, theo chế độ này, để lập quỹ khuyến khích phát triển sản
xuất (đoạn 1, điểm được, thông tư số 88-CP ngày 2-5-1972 của Hội đồng Chính phủ).
Việc trợ cấp này tiến
hành căn cứ theo tình hình thực tế và phải được ghi vào kế hoạch thu chi tài
chính của xí nghiệp.
7. Các xí nghiệp cần
vay vốn ngân hàng để làm các công việc thuộc quỹ khuyến khích phát triển sản xuất
được vay theo quy định của đoạn 1, điểm được, thông tư số 88-CP, và theo các
quy định cụ thể của Ngân hàng Nhà nước về cho vay vốn khuyến khích phát triển sản
xuất.
8. Hàng năm, trong
quá trình lập kế hoạch cũng như khi phân tích hiệu quả sử dụng quỹ khuyến khích
phát triển sản xuất, phải có sự tham gia ý kiến của công đoàn cơ sở; đặc biệt
chú ý tranh thủ ý kiến của công đoàn về các khoản chi về an toàn lao động.
II.
TRÍCH LẬP VÀ SỬ DỤNG QUỸ KHEN THƯỞNG VÀ PHÚC LỢI
1. Nội dung sử dụng
quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi đã được quy định ở điều 30 và điều 31 của điều
lệ tạm thời số 236-CP ngày 10-12-1970 sau đó được quy định bổ sung ở thông tư số
88-CP ngày 2-5-1972 (điểm a và b của đoạn 2).
Hướng sử dụng quỹ
khen thưởng như sau:
- Thưởng hoàn thành kế
hoạch khoảng 80%;
- Thưởng thành tích
xuất sắc trong các đợt thi đua (theo quy định ở nghị định số 104-CP ngày
18-7-1963 và 80-CP ngày 13-5-1964) và chi về tặng phẩm thưởng thi đua 20%.
(Bộ Lao động sẽ có
thông tư hướng dẫn cụ thể về sử dụng quỹ khen thưởng).
2. Đối tượng được
trích và mức trích (kể cả trường hợp trích theo mức tối thiểu do thực hiện kế
hoạch quá thấp) quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi đã được quy định rõ trong thông
tư số 88-CP ngày 2-5-1972.
3. Sau khi đã tính
toán quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi theo các mức quy định đối với các trường hợp:
hoàn thành kế hoạch lợi nhuận, lợi nhuận đăng ký cao, vượt kế hoạch lợi nhuận,
trích từ lợi nhuận sản xuất mặt hàng phụ bằng phế liệu, cần phải đánh giá mức độ
thực hiện 3 chỉ tiêu:
- Giá trị sản lượng
hàng hóa thực hiện;
- Tổng quỹ tiền lương
(quy theo mức độ hoàn thành giá trị tổng sản lượng);
- Sản phẩm chủ yếu
tính bằng hiện vật (đúng quy cách, đúng phẩm chất đã được xác nhận qua kiểm tra
kỹ thuật), để xác định mức được phép trích cho quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi.
Nếu xí nghiệp không đạt 3 chỉ tiêu đó thì cứ mỗi phần trăm (%) không hoàn thành
chỉ tiêu giá trị sản lượng hàng hóa thực hiện, phải trừ đi 2% số tiền được
trích của mỗi quỹ (quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi); nếu không hoàn thành chỉ
tiêu sản phẩm chủ yếu tính bằng hiện vật, thì tuỳ theo mức độ không hoàn thành
nhiều hay ít mà cứ 1% không hoàn thành kế hoạch mặt hàng, phải trừ đi 1% số tiền
được trích của mỗi quỹ (quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi).
4. Quỹ khen thưởng và
quỹ phúc lợi được tạm trích hàng quý. Xí nghiệp nào lập được kế hoạch sản xuất
- kỹ thuật – tài chính quý, được cấp trên duyệt (trong đó có kế hoạch
trích lập quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi theo quý), nếu hoàn thành và hoàn
thành vượt mức kế hoạch lợi nhuận quý thì, sau khi lập xong báo cáo quyết toán
quý, xí nghiệp lập bảng đề nghị trích quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi
theo mức kế hoạch đã tính cho 2 quỹ này trong quý, có tính thêm phần lợi nhuận
do sản xuất hàng hóa bằng phế liệu … theo đúng tỷ lệ trích và các điều kiện đã
quy định.
Xí nghiệp gửi bảng đề
nghị trích lập 2 quỹ nói trên cùng với quyết toán lên cơ quan quản xí nghiệp.
Sau khi đã được cơ quan chủ quản duyệt, xí nghiệp được tạm trích 50% của
mức quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi được duyệt trích cho quỹ đó.
Trường hợp đã hết năm
mà xí nghiệp chưa làm kịp báo cáo quyết toán (bảng tổng kết tài sản) hoặc cơ
quan chủ quản chưa duyệt kịp báo cáo đó, nhưng cần khen thưởng kịp thời,
thì xí nghiệp lập báo cáo theo các chỉ tiêu Nhà nước quy định về báo cáo hoàn
thành kế hoạch cuối năm, trình Bộ chủ quản duyệt, có ý kiến của công đoàn
ngành, và có cơ quan tài chính, thống kê tham gia xét duyệt.
Nếu xí nghiệp được
công nhận là hoàn thành kế hoạch thì được tạm trích 75% số tiền được trích cho
2 quỹ (quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi).
Sau khi báo cáo quyết
toán năm của xí nghiệp được cơ quan chủ quản cấp trên duyệt chính thức xí nghiệp
phải căn cứ vào mức trích quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi được duyệt mà thanh
toán số tiền đã tạm trích: còn thiếu thì trích thêm, thừa thì nộp trả lại ngân
sách.
5. Quỹ khen thưởng và
quỹ phúc lợi là 2
quỹ riêng biệt,
không được điều hoà cho nhau, trừ trường hợp khi quỹ khen thưởng,
tính bình quân đầu người, vượt một tháng lương bình quân cấp bậc tính theo đầu
người (như thông tư số 88-CP đã quy định), thì được chuyển số tiền vượt quá đó
bổ sung cho quỹ phúc lợi.
6. Nhà nước giao quyền
quản lý quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi, cũng như mọi nguồn vốn và tài sản
khác của Nhà nước ở xí nghiệp, cho giám đốc xí nghiệp quản lý, sử dụng theo
đúng chế độ của Nhà nước, có kết hợp chặt chẽ giữa giám đốc và Ban chấp hành
công đoàn ở cơ sở, như điều 35 của Điều lệ tạm thời đã quy định:
“Giám đốc xí nghiệp
chịu trách nhiệm đề ra kế hoạch và hướng dẫn việc sử dụng quỹ khen thưởng, có sự
tham gia của Ban chấp hành công đoàn.
Ban chấp hành công
đoàn đề ra phương hướng và kế hoạch sử dụng quỹ phúc lợi, có sự tham gia của
giám đốc xí nghiệp – và đưa ra đại hội công nhân viên chức của xí nghiệp thảo
luận và quyết định”.
7. Việc trích lập quỹ
khen thưởng và quỹ phúc lợi lấy từ lợi nhuận xí nghiệp đối với những xí nghiệp
hoàn thành kế hoạch mặt hàng xuất khẩu thi hành theo nghị định số 151-CP ngày
1-7-1974 của Hội đồng Chính phủ về thưởng khuyến khích xuất khẩu.
III.
SỬ DỤNG LỢI NHUẬN ĐỂ THAM GIA ĐẦU TƯ VỐN CỐ ĐỊNH VÀ BỔ SUNG LƯU ĐỘNG ĐỊNH MỨC
THEO KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC.
1. Tham gia đầu tư
vốn cố định theo kế hoạch Nhà nước.
Hàng năm, nếu xí nghiệp
có kế hoạch đầu tư vốn cố định được Nhà nước duyệt thì giải quyết bằng các nguồn
vốn sau đây:
a) Sử dụng từ 20% đến
50% tiền khấu hao cơ bản của xí nghiệp; trường hợp có yêu cầu đầu tư lớn thì
theo quyết định của Bộ chủ quản và Bộ Tài chính, có thể trích để lại mức khấu
hao nhiều hơn. Số tiền khấu hao còn lại, nộp vào ngân sách Nhà nước. Ở những xí
nghiệp không có kế hoạch đầu tư vốn cố định, thì phải nộp toàn bộ số khấu hao
cơ bản vào ngân sách Nhà nước.
b) Sử dụng lợi nhuận
xí nghiệp, với điều kiện là lợi nhuận xí nghiệp trong năm đó có khả năng tham
gia đầu tư ít nhất là 30% số vốn yêu cầu. Dưới mức đó thì không sử dụng lợi nhuận
để tham gia đầu tư.
c) Ngoài hai nguồn vốn
trên, nếu còn thiếu thì ngân sách Nhà nước cấp phát, bảo đảm đầu tư theo kế hoạch.
Ba nguồn vốn nói trên
được xác định trong kế hoạch tài chính của xí nghiệp và kế hoạch cấp phát ngân
sách hàng năm (chia ra quý).
Xí nghiệp phải gửi
vào Ngân hàng kiến thiết các khoản trích từ khấu hao cơ bản cũng như từ lợi nhuận
xí nghiệp theo đúng kế hoạch tham gia đầu tư vốn cố định, để được quản lý đúng
chế độ quản lý vốn đầu tư.
Trường hợp xí nghiệp
không hoàn thành kế hoạch lợi nhuận và kế hoạch trích nộp khấu hao, do đó
không trích được đủ số dự tính trích theo kế hoạch, thì xí nghiệp phải vay Ngân
hàng kiến thiết để bù vào số thiếu, bảo đảm việc đầu tư và thi công theo đúng kế
hoạch, ngân sách không cấp bù (như thông tư số 88-CP đã quy định). Trong trường
hợp này, sang năm sau, xí nghiệp phải có kế hoạch phấn đấu lấy lợi nhuận đăng
ký cao, hoặc lợi nhuận vượt kế hoạch để trả nợ Ngân hàng kiến thiết. Cơ quan chủ
quản xí nghiệp, cùng với ngân hàng kiến thiết và cơ quan tài chính, phân tích
và tìm nguyên nhân việc xí nghiệp không đảm bảo khả năng tham gia đầu tư, giúp
xí nghiệp khắc phục thiếu sót đó.
2. Bổ sung vốn lưu
động mức cần tăng thêm theo kế hoạch.
Hàng năm, nếu xí nghiệp
có yêu cầu tăng vốn lưu động định mức và kế hoạch bổ sung vốn đó được duyệt thì
xí nghiệp được dùng một phần lợi nhuận để bổ sung vốn lưu động theo đúng chế độ
quy định. Nguồn vốn bổ sung này, phải sắp đặt trong kế hoạch tài chính hàng năm
của xí nghiệp.
Nếu trong xí nghiệp
không hoàn thành kế hoạch lợi nhuận, do đó không trích được dù số lợi nhuận dự
tính trích theo kế hoạch, để bổ sung vốn lưu động định mức thì xí nghiệp phải
vay Ngân hàng Nhà nước để bù vào số còn thiếu, ngân sách không cấp bù, (như
thông tư số 88-CP đã quy định). Gặp trường hợp này, sang năm sau, xí nghiệp
phải có kế hoạch phấn đấu lấy lợi nhuận đăng ký cao, hoặc lợi nhuận vượt kế hoạch
để trả nợ Ngân hàng Nhà nước. Cơ quan chủ quản xí nghiệp cùng với Ngân hàng Nhà
nước và cơ quan tài chính, phân tích và tìm nguyên nhân việc xí nghiệp không đảm
bảo khả năng bổ sung vốn lưu động giúp xí nghiệp khắc phục thiếu sót đó.
IV.
TRÍCH NỘP LỢI NHUẬN XÍ NGHIỆP VÀO NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC.
Việc trích nộp lợi
nhuận vào Ngân sách Nhà nước phải theo quy định ở điều 15, 16, 17, 18 của Điều
lệ tạm thời phân phối lợi nhuận xí nghiệp công nghiệp quốc doanh (236/CP) và
quy định của Bộ Tài chính về thể thức trích nộp.
Phần thứ ba
CÔNG TÁC
HOẠCH, HẠCH TOÁN, BÁO CÁO VÀ KIỂM TRA THỰC HIỆN KẾ HOẠCH LỢI NHUẬN VÀ PHÂN PHỐI
LỢI NHUẬN XÍ NGHIỆP
1. Việc lập kế hoạch
lợi nhuận, kế hoạch phân phối lợi nhuận và trích lập các quỹ thực hiện theo
đúng nội dung sự hướng dẫn và các biểu quy định tại quyết định số 150-TTg ngày
17-5-1971 của Thủ tướng Chính phủ ban hành chế độ báo cáo kế hoạch năm của các
xí nghiệp công nghiệp quốc doanh trung ương.
2. Việc hạch toán
kế toán lợi nhuận thực hiện, lợi nhuận trích nộp, trích lập các quỹ và các
khoản phân phối khác, thực hiện theo quyết định số 425-TC/CĐKT ngày 14-12-1970
của Bộ Tài chính ban hành hệ thống tài khoản kế toán thống nhất.
3. Việc lập các
báo cáo thống kê và kế toán, thực hiện theo quyết định số 233-CP ngày
1-12-1970 của Hội đồng Chính phủ ban hành chế độ báo cáo thống kê và kế toán định
kỳ chính thức của các xí nghiệp công nghiệp.
4. Việc thực hiện
và kiểm tra việc thực hiện chế độ phân phối lợi nhuận, theo như thông tư số
88-CP ngày 2-5-1972 của Hội đồng Chính phủ (ở đoạn 10 và đoạn 11). Thông tư này
đã quy định rõ trách nhiệm của giám đốc xí nghiệp, kế toán trưởng, cơ quan chủ
quản cấp trên, và các cơ quan tổng hợp.
Nếu cơ quan có trách
nhiệm thẩm tra các báo cáo xét thấy xí nghiệp làm sai để trích các quỹ một cách
không chính đáng, thì phải bắt bồi hoàn cho công quỹ số tiền sai đó. Giám đốc
xí nghiệp, kế toán trưởng và những cán bộ có liên quan đến việc vi phạm sẽ bị
truất tiền thưởng và thi hành kỷ luật theo chế độ của Nhà nước.
Phần thứ tư
TỪNG BƯỚC
ÁP DỤNG ĐIỀU LỆ TẠM THỜI VỀ PHÂN PHỐI LỢI NHUẬN XÍ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP QUỐC
DOANH
1. Theo quy định của
Chính phủ ở nghị định số 236-CP và thông tư số 88-CP: “Xí nghiệp nào được áp dụng
chế độ phân phối lợi nhuận mới phải do Bộ chủ quản thoả thuận với Bộ Tài chính
xét định căn cứ vào đăng ký của xí nghiệp theo 4 điều kiện”.
Bốn điều kiện
đó là:
a) Sản xuất tương
đối ổn định và có lãi; có nghĩa là:
- Phương hướng, nhiệm
vụ sản xuất sản phẩm đã được cấp trên quyết định chính thức;
- Tổ chức dây chuyền
sản xuất và các đơn vị sản xuất – phân xưởng, tổ sản xuất đã ổn định và được cấp
trên có thẩm quyền duyệt y;
- Sản xuất về kinh
doanh cơ bản của xí nghiệp đã có lãi và xí nghiệp làm tốt nghĩa vụ nộp tích luỹ
cho Nhà nước. (Riêng đối với các xí nghiệp có kế hoạch lỗ phải được Nhà nước
duyệt).
b) Có kế hoạch sản
xuất – kỹ thuật – tài chính được duyệt.
- Xí nghiệp phải xây
dựng được kế hoạch đồng bộ gồm cả 3 bộ phận - sản xuất, kỹ thuật, tài chính; thống
nhất kế hoạch hiện vật với kế hoạch tài chính, bảo đảm cân đối và bảo đảm hiệu
quả kinh tế cao;
- Kế hoạch sản xuất
- kỹ thuật – tài chính của xí nghiệp phải dựa trên cơ sở các định mức
kinh tế kỹ thuật tiến bộ và khai thác tốt tiềm lực của xí nghiệp;
- Kế hoạch phải do xí
nghiệp xây dựng dựa vào số kiểm tra kế hoạch của Nhà nước, có sự tham gia của
quần chúng lao động; xí nghiệp phải bảo vệ kế hoạch đó trước cơ quan quản lý cấp
trên và được duyệt;
- Đối với các xí nghiệp
thí điểm cải tiến quản lý thì kế hoạch phải được xây dựng theo các chỉ tiêu
pháp lệnh mới. Các xí nghiệp khác sẽ phấn đấu để thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh
mới đó.
c) Đã thực hiện hạch
toán kinh tế tương đối tốt, nhất là hạch toán giá thành, có giá bán buôn xí
nghiệp cơ quan có thẩm quyền quy định:
- Xí nghiệp tổ chức
công việc hạch toán kinh tế xí nghiệp và công tác hạch toán kinh tế nội bộ xí
nghiệp tốt, bảo đảm chi phí tiết kiệm, đạt hiệu quả kinh tế cao trong mọi hoạt
động của mình, bảo đảm có doanh lợi hợp lý;
- Xí nghiệp thực hiện
tốt chế độ kế toán và chế độ thống kê của Nhà nước (bao gồm việc ghi chép ban đầu;
hệ thống tài khoản thống nhất; hình thức kế toán nhật ký chứng từ; báo biểu kế
toán, thống kê thống nhất) làm công cụ phân tích và kiểm tra các hoạt động được
chặt chẽ; xí nghiệp hạch toán được chi phí sản xuất và tính giá thành tương đối
chính xác;
- Lợi nhuận xí nghiệp
phải được hình thành trên cơ sở giá bán buôn xí nghiệp được Nhà nước duyệt và
trên cơ sở hạ giá thành sản phẩm;
- Riêng đối với xí
nghiệp được phép tạm thời có lỗ được Nhà nước duyệt.
d) Đã thực hiện
nghiêm chỉnh chế độ hợp đồng kinh tế: xí nghiệp đã thực hiện ký kết hợp đồng
kinh tế trực tiếp với xí nghiệp và tổ chức kinh doanh có quan hệ cung cấp, tiêu
thụ và thanh toán theo đúng chế độ hợp đồng kinh tế và các chế độ thể lệ của
Nhà nước.
2. Điều lệ tạm thời về
phân phối lợi nhuận xí nghiệp công nghiệp quốc doanh ban hành từ năm 1970 và đã
được áp dụng cho các xí nghiệp, góp phần thúc đẩy phong trào thi đua lao động,
sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội, bắt đầu từ năm 1974, các xí nghiệp
công nghiệp quốc doanh đều áp dụng thống nhất chế độ phân phối lợi nhuận mới
(nghị định số 236-CP ngày 10-12-1970 và thông tư số 88-CP ngày 2-5-1972 của Hội
đồng Chính phủ), như sau:
a) Đối với một số
xí nghiệp công nghiệp quốc doanh trung ương, xét thấy đảm bảo đủ 4 điều kiện (theo
quy định ở nghị định số 236-CP), đồng thời các xí nghiệp có khối lượng lợi nhuận
khá, có nhu cầu và khả năng tham gia đầu tư vốn cố định, bổ sung vốn lưu
động định mức cần tăng thêm, hoặc có yêu cầu về cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản
xuất mà trình độ quản lý của xí nghiệp có thể đảm đương được, thì Bộ chủ quản
xem xét, bàn bạc với Bộ Tài chính quyết định cho một số xí nghiệp đó áp dụng
toàn bộ chế độ phân phối lợi nhuận mới (ngoài việc trích lập quỹ khen thưởng,
quỹ phúc lợi, còn được trích lập quỹ khuyến khích phát triển sản xuất, hoặc nếu
có nhu cầu thì được trích lợi nhuận để tham gia đầu tư vốn cố định và bổ sung vốn
lưu động định mức cần tăng thêm theo kế hoạch) để rút kinh nghiệm, chuẩn bị từ
năm 1975 trở đi sẽ áp dụng một cách đầy đủ chế độ này ở một diện rộng hơn.
b) Đối với các xí
nghiệp công nghiệp quốc doanh khác (kể cả trung ương và địa phương)
trong năm 1974 chỉ mới áp dụng phân phối lợi nhuận theo 2 quỹ (quỹ khen
thưởng, quỹ phúc lợi) mà chưa áp dụng các khoản phân phối lợi nhuận khác (trích
lập quỹ khuyến khích phát triển sản xuất, tham gia đầu tư vốn cố định, bổ sung
vốn lưu động định mức cần tăng thêm). Tuỳ theo trình độ đạt được theo các điều
kiện quy định ở các xí nghiệp cụ thể mà áp dụng chế độ hai quỹ với mức độ thích
hợp.
3. Giám đốc xí nghiệp
cùng với tổ chức công đoàn xí nghiệp căn cứ vào nội dung và yêu cầu của 4 điều
kiện, làm kế hoạch phấn đấu, đăng ký việc thực hiện 4 điều kiện với Bộ chủ
quản và Bộ Tài chính, và đề nghị áp dụng chế độ phân phối lợi nhuận mới (theo mẫu
đăng ký kèm theo ở phần phụ lục).
Bộ chủ quản có trách
nhiệm xem xét, kiểm tra giúp đỡ xí nghiệp thực hiện 4 điều kiện và bàn với Bộ Tài
chính cho xí nghiệp đăng ký được hưởng ở mức độ 2 quỹ (quỹ khen thưởng, quỹ
phúc lợi) hay ở mức độ cao hơn (ngoài việc được trích lập quỹ khen thưởng, quỹ
phúc lợi, còn được trích lập quỹ khuyến khích phát triển sản xuất và các khoản
phân phối khác theo chế độ).
Ở địa phương thì Uỷ
ban hành chính tỉnh, thành phố xét duyệt theo đề nghị của Sở, Ty tài chính theo
tinh thần thận trọng, chặt chẽ - trong năm 1974, các xí nghiệp công nghiệp quốc
doanh địa phương chỉ được áp dụng 2 quỹ (quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi), bắt
đầu từ năm 1975 trở đi mới xét cho áp dụng dần dần rộng ra theo 3 quỹ và các
khoản phân phối khác.
Chế độ phân phối lợi
nhuận xí nghiệp quốc doanh là một bộ phận của chế độ quản lý xí nghiệp của Nhà
nước. Các ngành, các địa phương, các đơn vị, các Công ty và liên hiệp xí nghiệp
trong khi thực hiện cần rút kinh nghiệm kịp thời, bàn bạc với Bộ Tài chính để
hướng dẫn các xí nghiệp thi hành, tiến tới hoàn chỉnh điều lệ tạm thời, ban
hành điều lệ chính thức – nâng cao trình độ quản lý kinh tế tài chính, quản lý
xí nghiệp của ta.
|
QUYỀN BỘ TRƯỞNG BỘ
TÀI CHÍNH
Đào Thiện Thi
|
[1] Xem
Công báo 1971 - số 23 – trang 309
[2] Xem
Công báo 1972 - số 8 – trang 82