QUỐC
HỘI
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
250-LCT
|
Hà
Nội, ngày 18 tháng 12 năm 1980
|
LUẬT
BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
Chương 1:
NGUYÊN TẮC CHUNG
Điều
1
Việc bầu cử đại biểu Quốc hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng,
trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Điều
2
Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam không phân biệt Dân tộc, Nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng
tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ mười tám tuổi trở
lên đều có quyền bầu cử và từ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có thể được bầu vào
Quốc hội, trừ những người mất trí và những người bị pháp
luật hoặc Toà án nhân dân tước các quyền đó.
Điều
3
Công dân đang ở trong quân đội
nhân dân có quyền bầu cử và có thể được bầu vào Quốc hội theo Điều 2.
Điều
4
Cử tri có quyền bãi miễn đại biểu
Quốc hội, nếu đại biểu đó không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
Điều
5
Hội đồng Nhà nước tuyền bố và chủ
trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội.
Điều
6
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có
trách nhiệm cùng với các cơ quan chính quyền tổ chức việc bầu cử đại biểu Quốc
hội.
Điều
7
Kinh phí về tổ chức bầu cử đại
biểu Quốc hội do ngân sách Nhà nước đài thọ.
Chương
2:
SỐ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI,
ĐƠN VỊ BẦU CỬ VÀ KHU VỰC BỎ PHIẾU
Điều
8
Tổng số đại biểu Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không quá năm trăm người.
Điều
9
Đại biểu Quốc hội do từng đơn vị
bầu cử bầu ra. Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc đơn vị hành chính cấp
tương đương có thể là một đơn vị bầu cử hoặc chia thành nhiều đơn vị bầu cử.
Số đại biểu của mỗi đơn vị bầu cử
do Hội đồng Nhà nước ấn định cho mỗi khoá Quốc hội. Hội đồng Nhà nước dành cho
thủ đô Hà Nội số đại biểu thích đáng. Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
hoặc đơn vị hành chính cấp tương đương được bầu ít nhất hai đại biểu.
Điều
10
Số đại biểu Quốc hội người dân tộc
thiểu số trong mỗi khoá Quốc hội do Hội đồng Nhà nước ấn định, bảo đảm cho
thành phần dân tộc thiểu số có số đại biểu thích đáng trong Quốc hội.
Điều
11
Số đơn vị bầu cử, danh sách các
đơn vị và số đại biểu của mỗi đơn vị do Hội đồng Nhà nước ấn định và được công
bố chậm nhất là sáu mươi ngày trước ngày bầu cử.
Điều
12
Mỗi đơn vị bầu cử chia thành nhiều
khu vực bỏ phiếu. Mỗi khu vực bỏ phiếu gồm từ năm trăm đến bốn nghìn người.
ở miền núi, hải đảo và những nơi
dân cư không tập Trung, dù chưa tới năm trăm người cũng có thể thành lập một
khu vực bỏ phiếu.
Các bệnh viện, nhà hộ sinh, nhà
an dưỡng, nhà nuôi người tàn tật có từ năm mươi cử tri trở lên thì có thể lập
thành khu vực bỏ phiếu riêng.
Điều
13
Việc chia khu vực bỏ phiếu do Uỷ
ban nhân dân xã, phường hoặc cấp tương đương định và do Uỷ ban nhân dân cấp
trên trực tiếp chuẩn y.
Các đơn vị quân đội nhân dân
thành lập những khu vực bỏ phiếu riêng.
Chương
3:
HỘI ĐỒNG BẦU CỬ, CÁC BAN
BẦU CỬ, CÁC TỔ BẦU CỬ
Điều
14
Phụ trách tổ chức việc bầu cử đại
biểu Quốc hội có:
Hội đồng bầu cử ở Trung ương,
Ban bầu cử ở đơn vị bầu cử,
Tổ bầu cử ở khu vực bỏ phiếu.
Điều 15
Chậm nhất là năm mươi lăm ngày
trước ngày bầu cử, Hội đồng Nhà nước thành lập Hội đồng bầu cử từ hai mươi lăm
đến ba mươi người, gồm đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các chính đảng, các
đoàn thể nhân dân trong cả nước.
Hội đồng bầu cử bầu ra Chủ tịch,
một hoặc nhiều Phó Chủ tịch, Tổng thư ký và một hoặc nhiều thư ký.
Hội đồng bầu cử có những nhiệm vụ
và quyền hạn sau đây:
1- Kiểm tra, đôn đốc việc thi
hành luật lệ bầu cử đại biểu Quốc hội trong cả nước;
2- Xét và giải quyết những khiếu
nại về công tác của các ban bầu cử, tổ bầu cử;
3- Tiếp nhận và kiểm tra biên bản
bầu cử do các ban bầu cử gửi đến, làm biên bản tổng kết cuộc bầu cử trong cả nước;
4- Tuyên bố kết quả cuộc bầu cử
trong cả nước;
5- Cấp giấy chứng nhận cho đại
biểu trúng cử;
6- Trình Quốc hội biên bản tổng
kết bầu cử và những hồ sơ, tài liệu về bầu cử.
Điều
16
Chậm nhất là bốn mươi ngày trước
ngày bầu cử, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và đơn vị
hành chính cấp tương đương thành lập ở mỗi đơn vị bầu cử một ban bầu cử, từ chín
đến mười lăm người gồm, đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các chính đảng, các
đoàn thể nhân dân ở địa phương.
Ban bầu cử bầu ra một Trưởng
ban, một hoặc hai Phó trưởng ban và một hoặc nhiều thư ký.
Ban bầu cử có những nhiệm vụ và
quyền hạn sau đây:
1- Kiểm tra, đôn đốc việc thi
hành luật lệ bầu cử đại biểu Quốc hội của các tổ bầu cử;
2- Kiểm tra, đôn đốc việc bố trí
các phòng bỏ phiếu;
3- Xét và giải quyết những khiếu
nại về công tác của các tổ bầu cử;
4- Phân phối phiếu bầu cử cho
các tổ bầu cử, chậm nhất là năm ngày trước ngày bầu cử;
5- Kiểm tra việc lập và niêm yết
danh sách cử tri;
6- Tiếp nhận đơn ứng cử của những
người được giới thiệu ra ứng cử, lập và niêm yết danh sách những người ra ứng cử,
xét và giải quyết những khiếu nại về việc lập danh sách người ra ứng cử;
7- Kiểm tra công việc bầu cử tại
các phòng bỏ phiếu;
8- Tiếp nhận, kiểm tra biên bản
kiểm phiếu do các tổ bầu cử gửi đến, làm biên bản xác định kết quả bầu cử trong
đơn vị để gửi Hội đồng bầu cử và tuyên bố kết quả đó;
9- Giao hồ sơ, tài liệu về bầu cử
cho Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc đơn vị hành
chính cấp tương đương.
Điều 17
Chậm nhất là hai mươi ngày trước
ngày bầu cử, Uỷ ban nhân dân xã, phường hoặc cấp tương đương thành lập ở mỗi
khu vực bỏ phiếu một tổ bầu cử, từ năm đến mười một người, gồm đại diện Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể và tầng lớp nhân dân ở xã, phường hoặc cấp tương
đương.
Các đơn vị quân đội nhân dân thành
lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu của mình một tổ bầu cử gồm từ năm đến chín người đại
diện cho quân nhân trong đơn vị.
Tổ bầu cử bầu ra một tổ trưởng,
một phó tổ trưởng và một hoặc nhiều thứ ký.
Tổ bầu cử có những nhiệm vụ và
quyền hạn sau đây:
1- Phụ trách công tác bầu cử
trong khu vực bỏ phiếu;
2- Bố trí phòng bỏ phiếu và chuẩn
bị hòm phiếu;
3- Phát phiếu bầu cử có đóng dấu
của tổ bầu cử cho các cử tri;
4- Bảo đảm trật tự trong phòng bỏ
phiếu;
5- Kiểm phiếu và làm biên bản kiểm
phiếu để gửi lên ban bầu cử;
6- Giao biên bản kiểm phiếu và tất
cả những phiếu bầu cho Uỷ ban nhân dân xã, phường hoặc cấp tương đương.
Điều
18
Hội đồng bầu cử, ban bầu cử, tổ
bầu cử không được vận động bầu cử cho những người ra ứng cử.
Điều
19
Các cơ quan và nhân viên Nhà nước,
các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội tạo điều kiện thuận lợi giúp Hội đồng
bầu cử, các ban bầu cử và tổ bầu cử thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình.
Điều
20
Hội đồng bầu cử hết nhiệm vụ sau
khi đã trình Quốc hội biên bản tổng kết bầu cử và những hồ sơ, tài liệu về bầu
cử. Các ban bầu cử, các tổ bầu cử hết nhiệm vụ sau khi Hội đồng bầu cử tuyên bố
kết quả bầu cử trong cả nước.
Chương
4:
DANH SÁCH CỬ TRI
Điều
21
Trong thời gian lập danh sách cử
tri, những công dân có quyền bầu cử đại biểu Quốc hội cư trú thường xuyên hay tạm
thời ở đâu đều được ghi tên vào danh sách cử tri ở nơi đó.
Mỗi cử tri chỉ được ghi tên vào
danh sách ở một nơi cư trú.
Điều
22
Danh sách cử tri do Uỷ ban nhân
dân xã, phường hoặc cấp tương đương lập theo khu vực bỏ phiếu.
Danh sách cử tri trong các đơn vị
quân đội nhân dân do ban chỉ huy đơn vị lập theo mỗi khu vực bỏ phiếu.
Điều
23
Chậm nhất là ba mươi ngày trước
ngày bầu cử, cơ quan lập danh sách cử tri phải niêm yết danh sách đó tại trụ sở
Uỷ ban nhân dân xã, phường hoặc cấp tương đương, hoặc tại những nơi công cộng của
khu vực bỏ phiếu, đồng thời phải thông báo rộng rãi việc niêm yết để nhân dân
kiểm tra danh sách cử tri.
Điều
24
Khi kiểm tra danh sách cử tri, nếu
thấy có sai lầm hoặc thiếu sót, thì trong thời hạn hai mươi ngày kể từ ngày
niêm yết, mọi người có quyền khiếu nại, báo cáo bằng miệng hoặc bằng giấy với
cơ quan lập danh sách cử tri. Cơ quan lập danh sách cử tri phải ghi vào sổ những
khiếu nại hoặc báo cáo đó. Trong thời hạn ba ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại
hoặc báo cáo, cơ quan lập danh sách cử tri phải giải quyết và thông báo cho người
khiếu nại hoặc người báo cáo biết kết quả giải quyết.
Nếu người khiếu nại hoặc báo cáo
không đồng ý về cách giải quyết đó, thì có quyền khiếu nại lên Toà án nhân dân
quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày
nhận được khiếu nại, Toà án nhân dân phải giải quyết xong. Quyết định của Toà
án nhân dân là quyết định cuối cùng.
Điều
25
Từ khi công bố danh sách cử tri cho
đến ngày bầu cử, nếu cử tri nào vì đi nơi khác, không thể tham gia bỏ phiếu ở
nơi đã được ghi tên vào danh sách cử tri, thì có quyền xin giấy chứng nhận của
Uỷ ban nhân dân nơi đó để được ghi tên vào danh sách cử tri và tham gia bỏ phiếu
ở nơi mới đến. Khi cấp giấy chứng nhận, Uỷ ban nhân dân phải ghi ngay vào danh
sách, bên cạnh tên cử tri: "Đi bỏ phiếu nơi khác".
Chương
5:
DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC
GIỚI THIỆU RA ỨNG CỬ
Điều 26
Ở mỗi đơn vị bầu cử, Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam kết hợp việc tham khảo ý kiến của tập thể nhân dân lao động
ở cơ sở với việc hiệp thương với các chính đảng, các đoàn thể nhân dân để giới
thiệu danh sách những người ứng cử.
Điều
27
Người được giới thiệu ra ứng cử
chỉ được ghi tên ứng cử ở một đơn vị bầu cử.
Điều
28
Người ứng cử không được tham gia
ban bầu cử hoặc tổ bầu cử thuộc đơn vị mình ra ứng cử.
Điều
29
Chậm nhất là ba mươi ngày trước
ngày bầu cử, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc đơn vị hành chính cấp tương đương phải
nộp tại ban bầu cử:
1- Giấy giới thiệu người ứng cử;
2- Đơn ứng cử của những người được
giới thiệu có ghi tên, tuổi, nghề nghiệp, nguyên quán, địa chỉ, nơi ra ứng cử;
3- Giấy chứng nhận người ứng cử
có đủ điều kiện ứng cử ở Điều 2.
Khi nhận các giấy tờ nói trên,
ban bầu cử phải cấp giấy biên nhận.
Điều
30
Khi hết thời hạn ứng cử, ban bầu
cử phải lập danh sách những người được giới thiệu ra ứng cử và công bố danh
sách đó chậm nhất là hai mươi ngày trước ngày bầu cử.
Điều
31
Kể từ ngày danh sách những người
ứng cử được công bố, ai thấy trong danh sách có sai lầm hoặc thiếu sót thì có
quyền khiếu nại, báo cáo bằng miệng hoặc bằng giấy với ban bầu cử. Ban bầu cử
phải ghi vào sổ các khiếu nại hoặc báo cáo đó. Trong thời hạn ba ngày kể từ
ngày nhận được khiếu nại hoặc báo cáo, ban bầu cử phải giải quyết xong. Nếu
không đồng ý, thì người khiếu nại hoặc báo cáo có quyền khiếu nại hoặc báo cáo
với Hội đồng bầu cử. Hội đồng phải giải quyết xong trong thời hạn năm ngày, kể
từ ngày nhận được khiếu nại hoặc báo cáo. Quyết định của Hội đồng bầu cử là quyết
định cuối cùng.
Điều
32
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các
chính đảng, các đoàn thể nhân dân, cũng như công dân Việt Nam, theo quy định của
pháp luật, có quyền cổ động bằng mọi hình thức để giới thiệu người ứng cử.
Người ứng cử có quyền cổ động
cho bản thân mình, theo quy định của pháp luật.
Chương 6:
TRÌNH TỰ BẦU CỬ
Mục 1: NGÀY BẦU CỬ
Điều
33
Việc bầu cử đại biểu Quốc hội tiến
hành thống nhất một ngày trong cả nước.
Ngày bầu cử phải là ngày chủ nhật,
do Hội đồng Nhà nước ấn định và công bố chậm nhất là sáu mươi ngày trước ngày bầu
cử.
Điều
34
Trong thời hạn mười ngày trước ngày
bầu cử, tổ bầu cử phải thường xuyên thông báo cho cử tri biết ngày bầu cử, nơi
bỏ phiếu và thời gian bỏ phiếu, bằng niêm yết, phát thanh và mọi phương tiện
thông tin khác của địa phương.
Mục 2: THỂ THỨC
BỎ PHIẾU
Điều
35
Cuộc bỏ phiếu bắt đầu từ bảy giờ
sáng đến bảy giờ tối. Tuỳ tình hình địa phương, tổ bầu cử có thể quyết định cho
khai mạc sớm hay là bế mạc muộn hơn giờ quy định, nhưng không được trước năm giờ
sáng hoặc quá mười giờ đêm.
Điều
36
Mỗi cử tri chỉ có quyền bỏ một
phiếu bầu.
Cử tri phải tự mình đi bầu,
không được nhờ người khác bầu thay, không được bầu bằng cách gửi thư, trừ những
trường hợp nói ở Điều 37.
Điều
37
Cử tri không thể tự viết được
phiếu bầu thì có thể nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự tay mình bỏ phiếu. Nếu
vì tàn tật không tự bỏ phiếu được, thì cử tri có thể nhờ người khác bỏ phiếu
vào hòm phiếu.
Cử tri ốm đau, già yếu, tàn tật,
không thể đến phòng bỏ phiếu được, có thể đề nghị tổ bầu cử mang hòm phiếu và
phiếu bầu đến nơi ở để bỏ phiếu. Trong trường hợp này, tổ bầu cử có thể tổ chức
hòm phiếu phụ mang đến nơi ở của cử tri để tiếp nhận phiếu bầu.
Điều
38
Lúc cử tri viết phiếu, không ai
được đến xem, kể cả nhân viên tổ bầu cử. Nếu viết hỏng, cử tri có quyền đề nghị
tổ bầu cử đổi cho một phiếu khác.
Điều
39
Cấm tuyên truyền cổ động cho người
ứng cử tại phòng bỏ phiếu.
Điều
40
Mọi người đều phải tuân theo nội
quy của phòng bỏ phiếu.
Điều
41
Khi đã hết giờ bỏ phiếu, nếu còn
cử tri có mặt tại phòng bỏ phiếu mà chưa kịp bỏ phiếu, thì chỉ sau khi số cử
tri này bỏ phiếu xong, tổ bầu cử mới được tuyên bố kết thúc cuộc bỏ phiếu.
Điều
42
Trong ngày bầu cử, cuộc bỏ phiếu
phải tiến hành liên tục. Nếu có trường hợp bất ngờ làm gián đoạn việc bỏ phiếu
thì tổ bầu cử phải lập tức niêm phong giấy tờ và hòm phiếu lại, báo cáo cho ban
bầu cử biết, đồng thời phải có những biện pháp cần thiết để cuộc bỏ phiếu được
tiếp tục.
Điều
43
Nếu vì lý do đặc biệt cần hoãn
ngày bỏ phiếu, thì tổ bầu cử phải kịp thời báo cho ban bầu cử biết để đề nghị Hội
đồng bầu cử xét định.
Chương
7:
KẾT QUẢ BẦU CỬ
Mục 1: VIỆC
KIỂM PHIẾU
Điều
44
Việc kiểm phiếu phải được tiến
hành tại phòng bỏ phiếu ngay sau khi cuộc bỏ phiếu kết thúc. Tổ bầu cử phải mời
hai cử tri không phải là người ứng cử có mặt tại đó chứng kiến việc kiểm phiếu.
Người ứng cử hoặc người được người
ứng cử chính thức uỷ nhiệm, các phóng viên báo chí, điện ảnh, nhiếp ảnh, truyền
hình, phát thanh được chứng kiến việc kiểm phiếu.
Điều
45
Những phiếu sau đây là không hợp
lệ:
1- Không phải là phiếu theo mẫu
quy định do tổ bầu cử phát;
2- Không có dấu của tổ bầu cử;
3- Ghi tên người ứng cử quá số đại
biểu được bầu.
Điều
46
Những phiếu bầu cử có ghi tên một
hay nhiều người không ứng cử vẫn được coi là hợp lệ, nhưng khi kiểm phiếu chỉ
tính những người có tên trong danh sách ứng cử.
Tổ bầu cử không được xoá hoặc chữa
các tên ghi trên phiếu bầu.
Điều
47
Nếu có phiếu nào nghi là không hợp
lệ thì tổ trưởng tổ bầu cử đưa vấn đề này ra toàn tổ giải quyết.
Điều
48
Phiếu trắng là phiếu mà tất cả
tên những người ứng cử đều bị gạch xoá, nếu là phiếu in tên sẵn, hoặc là phiếu
không ghi tên người ứng cử nào, nếu là phiếu để trắng cho cử tri tự viết lấy.
Điều
49
Những khiếu nại tại chỗ về việc
kiểm phiếu do tổ bầu cử tiếp nhận, giải quyết và ghi cách giải quyết vào biên bản.
Nếu tổ bầu cử không giải quyết được, thì phải chuyển đến ban bầu cử để giải quyết.
Điều 50
Tổ bầu cử phải ghi vào biên bản
kết quả kiểm phiếu:
- Tổng số cử tri của khu vực bỏ
phiếu;
- Số cử tri đã đi bầu;
- Số phiếu hợp lệ;
- Số phiếu không hợp lệ;
- Số phiếu trắng;
- Số phiếu bầu cho mỗi người ra ứng
cử;
- Những khiếu nại nhận được, những
khiếu nại đã giải quyết và cách giải quyết, những khiếu nại chưa giải quyết được.
Biên bản làm thành hai bản, có
chữ ký của tổ trưởng, thư ký và hai cử tri được mời chứng kiến việc kiểm phiếu:
một bản gửi đến ban bầu cử, một bản gửi đến Uỷ ban nhân dân xã, phường hoặc cấp
tương đương.
Mục
2: KẾT QUẢ BẦU CỬ Ở ĐƠN VỊ BẦU CỬ
Điều
51
Khi nhận được biên bản của các tổ
bầu cử, ban bầu cử kiểm tra các biên bản đó và lập biên bản xác định kết quả bầu
cử ở đơn vị bầu cử của mình.
Biên bản phải ghi rõ:
- Số đại biểu Quốc hội ấn định
cho đơn vị bầu cử;
- Số người ra ứng cử;
- Tổng số cử tri trong đơn vị bầu
cử;
- Số cử tri đã đi bầu, tỷ lệ so
với tổng số cử tri;
- Số phiếu hợp lệ;
- Số phiếu không hợp lệ;
- Số phiếu trắng;
- Số phiếu bầu cho mỗi người ra ứng
cử;
- Danh sách những người trúng cử;
- Những khiếu nại do các tổ bầu
cử đã giải quyết, những khiếu nại do ban bầu cử giải quyết, những khiếu nại
chuyển đến Hội đồng bầu cử giải quyết.
Biên bản làm thành hai bản, có
chữ ký của trưởng ban, phó trưởng ban và các thư ký: một bản gửi Hội đồng bầu cử,
một bản gửi Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc đơn vị
hành chính cấp tương đương.
Điều
52
Trong số đại biểu mà đơn vị bầu
cử được bầu, những người ra ứng cử được quá nửa số phiếu hợp lệ và được nhiều
phiếu hơn cả là trúng cử. Trong trường hợp nhiều người được số phiếu bằng nhau
thì dựa vào thứ tự tuổi mà sắp xếp, người nhiều tuổi hơn được trúng cử.
Mục 3: VIỆC BẦU
THÊM HOẶC BẦU LẠI
Điều
53
Nếu trong cuộc bầu cử đầu tiên,
số người trúng cử chưa đủ số đại biểu do Hội đồng Nhà nước quy định cho đơn vị
bầu cử, thì ban bầu cử phải ghi rõ điểm đó vào biên bản và báo cáo lên Hội đồng
bầu cử, đồng thời định ngày bầu thêm số đại biểu còn thiếu. Việc bầu thêm phải
được tiến hành chậm nhất là mười lăm ngày sau cuộc bầu cử đầu tiên. Trong cuộc
bầu thêm, cử tri chỉ chọn bầu trong danh sách những người đã ra ứng cử kỳ đầu
nhưng không trúng cử.
Điều
54
ở mỗi đơn vị bầu cử, nếu số cử
tri đi bầu chưa được quá nửa số cử tri ghi trong danh sách, thì ban bầu cử ghi
rõ điểm đó vào biên bản và báo cáo ngay cho Hội đồng bầu cử. Hội đồng bầu cử phải
quyết định ngày bầu lại chậm nhất là mười lăm ngày sau cuộc bầu cử đầu tiên.
Trong cuộc bầu lại, chỉ chọn bầu trong danh sách những người đã ra ứng cử kỳ đầu.
Điều
55
Việc bầu thêm hoặc bầu lại vẫn
theo danh sách cử tri đã lập trong cuộc bầu cử đầu tiên và phải được tiến hành
theo những quy định của luật này, trừ điều kiện phải được quá nửa số phiếu hợp
lệ quy định ở Điều 52 và phải có quá nửa số cử tri đi bầu
quy định ở Điều 54.
Mục
4: VIỆC TỔNG KẾT CUỘC BẦU CỬ
Điều 56
Sau khi nhận và kiểm tra biên bản
của tất cả các ban bầu cử và giải quyết những khiếu nại nếu có, Hội đồng bầu cử
lập biên bản tổng kết cuộc bầu cử trong cả nước.
Biên bản tổng kết phải ghi rõ:
- Tổng số đại biểu Quốc hội được
bầu;
- Tổng số người ứng cử;
- Tổng số cử tri;
- Số cử tri đã đi bầu, tỷ lệ so
với tổng số cử tri;
- Số phiếu hợp lệ;
- Số phiếu không hợp lệ;
- Số phiếu trắng;
- Danh sách những người trúng cử
và số phiếu bầu cho mỗi người;
- Những việc quan trọng đã xảy
ra và cách giải quyết.
Biên bản làm thành hai bản có chữ
ký của chủ tịch, các phó chủ tịch, tổng thư ký và các thư ký Hội đồng bầu cử: một
bản gửi đến Hội đồng Nhà nước, một bản gửi đến Hội đồng bộ trưởng.
Chương
8:
VIỆC BẦU CỬ BỔ SUNG ĐẠI
BIỂU QUỐC HỘI
Điều
57
Trong nhiệm kỳ, nếu đơn vị bầu cử
nào khuyết đại biểu Quốc hội thì Hội đồng Nhà nước có thể quyết định việc bầu cử
bổ sung đại biểu cho đơn vị đó. Hội đồng Nhà nước lập một uỷ ban bầu cử bổ
sung, từ ba đến năm người, gồm đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số
đoàn thể nhân dân, do Tổng thư ký Hội đồng Nhà nước làm chủ tịch.
Điều
58
Quyết định bầu cử bổ sung của Hội
đồng Nhà nước được công bố chậm nhất là ba mươi ngày trước ngày bầu cử.
Điều
59
Danh sách cử tri do Uỷ ban nhân
dân xã, phương hoặc cấp tương đương lập phải được công bố chậm nhất là mười lăm
ngày trước ngày bầu cử bổ sung.
Điều
60
Chậm nhất là hai mươi ngày, trước
ngày bầu cử bổ sung, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc
đơn vị hành chính cấp tương đương thành lập ở đơn vị bầu cử một ban bầu cử bổ
sung, từ ba đến năm người, gồm đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số
đoàn thể nhân dân địa phương.
Ban bầu cử bổ sung bầu ra một
trưởng ban, một phó trưởng ban và một thư ký.
Điều
61
Chậm nhất là mười lăm ngày trước
ngày bầu cử bổ sung, Uỷ ban nhân dân xã, phường hoặc cấp tương đương thành lập ở
mỗi khu vực bỏ phiếu một tổ bầu cử bổ sung từ năm đến bảy người, gồm đại diện Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và một số đoàn thể nhân dân ở cơ sở.
Tổ bầu cử bổ sung bầu ra một tổ
trưởng, một phó tổ trưởng và một thư ký.
Điều
62
Quyền hạn và nhiệm vụ của uỷ ban
bầu cử bổ sung, ban bầu cử bổ sung, tổ bầu cử bổ sung và thể thức bỏ phiếu bầu
cử bổ sung cũng theo những quy định về Hội đồng bầu cử, ban bầu cử, tổ bầu cử
và về trình tự bầu cử, kết quả bầu cử nói ở luật này.
Điều
63
Danh sách những người do Mặt trận
Tổ quốc ở địa phương khuyết đại biểu giới thiệu ra ứng cử được công bố chậm nhất
là mười ngày trước ngày bầu cử.
Điều
64
Những khiếu nại về công tác của
tổ bầu cử bổ sung do ban bầu cử bổ sung giải quyết. Những khiếu nại về công tác
của ban bầu cử bổ sung do uỷ ban bầu cử bổ sung giải quyết.
Chương
9:
VIỆC BÃI MIỄN ĐẠI BIỂU
QUỐC HỘI
Điều
65
Đại biểu Quốc hội có thể bị cử
tri của đơn vị bầu ra mình bãi miễn trước khi hết nhiệm kỳ, nếu không được nhân
dân tín nhiệm nữa.
Điều
66
Hội đồng Nhà nước quyết định tổ
chức việc để cử tri bỏ phiếu bãi miễn đại biểu Quốc hội theo kiến nghị của Uỷ
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hoặc Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương hoặc đơn vị hành chính cấp tương đương.
Điều
67
Chậm nhất là mười ngày sau khi
có quyết định của Hội đồng Nhà nước, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương hoặc đơn vị hành chính cấp tương đương thành lập ban tổ chức bãi miễn
từ ba đến năm người, gồm đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số đoàn thể
nhân dân ở địa phương, để phụ trách việc tổ chức bãi miễn đại biểu Quốc hội.
Ban tổ chức bãi miễn bầu ra một
trưởng ban, một phó trưởng ban và một thư ký.
Điều 68
Chậm nhất là mười lăm ngày sau
khi có quyết định của Hội đồng Nhà nước, Uỷ ban nhân dân xã, phường hoặc cấp
tương đương thành lập tại mỗi khu vực bỏ phiếu một tổ công tác bãi miễn, từ ba
đến năm người, gồm đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số đoàn thể nhân
dân ở cơ sở, để tổ chức việc bỏ phiếu bãi miễn và lập biên bản kiểm phiếu.
Tổ công tác bãi miễn bầu ra một
tổ trưởng, một phó tổ trưởng và một thư ký.
Biên bản của tổ công tác bãi miễn
làm thành hai bản, có chữ ký của tổ trưởng, phó tổ trưởng và thư ký: một bản gửi
đến ban tổ chức bãi miễn, một bản gửi đến Uỷ ban nhân dân xã, phường hoặc cấp
tương đương.
Điều 69
Căn cứ vào biên bản kiểm phiếu của
các tổ công tác bãi miễn, ban tổ chức bãi miễn làm biên bản xác định kết quả bỏ
phiếu và tuyên bố kết quả bãi miễn.
Biên bản làm thành hai bản, có
chữ ký của trưởng ban, phó trưởng ban và thư ký: một bản gửi đến Hội đồng Nhà
nước, một bản gửi đến Hội đồng bộ trưởng kèm theo những khiếu nại nếu có.
Điều
70
Phải có quá nửa tổng số cử tri
trong đơn vị bầu cử bỏ phiếu bãi miễn, thì việc bãi miễn đại biểu Quốc hội mới
có giá trị.
Chương
10:
VIỆC XỬ LÝ NHỮNG HÀNH ĐỘNG
VI PHẠM LUẬT BẦU CỬ
Điều
71
Người nào dùng các thủ đoạn lừa
gạt, mua chuộc hoặc cưỡng ép làm trở ngại việc bầu cử, ứng cử và bãi miễn đại
biểu Quốc hội của công dân, thì có thể bị phạt tù đến hai năm.
Điều
72
Thành viên Hội đồng bầu cử, ban
bầu cử, tổ bầu cử, uỷ ban bầu cử bổ sung, ban bầu cử bổ sung, tổ bầu cử bổ
sung, ban tổ chức bãi miễn, tổ công tác bãi miễn và nhân viên các cơ quan Nhà
nước, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, các đơn vị bộ đội và mọi công
dân có trách nhiệm trong công tác bầu cử, bầu cử bổ sung, bãi miễn phạm tội giả
mạo giấy tờ, gian lận phiếu hoặc dùng mọi thủ đoạn khác để làm sai lạc kết quả
bầu cử hoặc bãi miễn đại biểu Quốc hội, thì có thể bị phạt tù đến ba năm.
Điều
73
Trong những trường hợp vi phạm
luật bầu cử vì mục đích phản cách mạng, thì người phạm tội bị trứng trị theo
pháp luật hiện hành về tội phản cách mạng.
Điều
74
Mọi người có quyền tố cáo những
việc làm trái phép trong lúc bầu cử hoặc bãi miễn đại biểu Quốc hội. Ai cản trở
hoặc trả thù người tố cáo thì có thể bị phạt tù đến ba năm.
Chương
11:
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 75
Luật này thay thế luật bầu cử đại
biểu Quốc hội ngày 31 tháng 12 năm 1959.
Điều
76
Hội đồng bộ trưởng quy định chi tiết
thi hành luật này.
Luật này đã được Quốc
hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VI, kỳ họp thứ 7, thông qua
trong phiên họp ngày 18 tháng 12 năm 1980.