TỊCH THU, TRƯNG THU,
TRƯNG MUA RUỘNG ĐẤT
Mục 1: ĐỐI VỚI
RUỘNG ĐẤT VÀ TÀI SẢN CỦA THỰC DÂN PHÁP VÀ CỦA ĐẾ QUỐC XÂM LƯỢC KHÁC; CỦA ĐỊA CHỦ
VIỆT GIAN, PHẢN ĐỘNG, CƯỜNG HÀO GIAN ÁC
Điều 2.
- Tịch thu toàn bộ ruộng đất và
tài sản của thực dân Pháp và của đế quốc xâm lược khác.
Điều 3.
- Đối với địa chủ Việt gian, phản
động, cường hào gian ác, thì tuỳ tội nặng nhẹ mà tịch thu toàn bộ hoặc một phần
ruộng đất, trâu bò, nông cụ, lương thực thừa, nhà cửa thừa và tài sản khác.
Phần không tịch thu thì trưng
thu.
Mục 2: ĐỐI VỚI
RUỘNG ĐẤT VÀ TÀI SẢN CỦA NHÂN SĨ DÂN CHỦ, ĐỊA CHỦ KHÁNG CHIẾN, ĐỊA CHỦ THƯỜNG.
Điều 4.
- Đối với nhân sĩ dân chủ, địa
chủ kháng chiến, địa chủ thường, thì:
Trưng thu toàn bộ ruộng đất hiện
có cùng trâu bò và nông cụ.
Không đụng đến tài sản khác.
Giá trưng mua ruộng đất là giá sản
lượng trung bình hàng năm của ruộng đất trưng mua.
Giá trưng mua trâu bò, nông cụ
là giá thị trường ở địa phương.
Giá trưng mua được trả bằng một
loại công phiếu riêng.
Công phiếu ấy được trả lãi 1,5
phần trăm mỗi năm.
Sau thời hạn mười năm sẽ hoàn vốn.
Mục 3: ĐỐI VỚI
RUỘNG ĐẤT CỦA ĐỊA CHỦ ĐÃ PHÂN TÁN.
Điều 5.
- Từ ngày ban hành sắc lệnh giảm
tô (14 tháng 7 năm 1949) đến ngày ban hành sắc lệnh phát động quần chúng triệt
để giảm tô (12 tháng 4 năm 1953), việc phân tán ruộng đất của địa chủ với mục
đích trốn tránh sắc lệnh giảm tô và sắc lệnh thuế nông nghiệp, là không chính
đáng.
Đối với ruộng đất của địa chủ đã
phân tán trong trường hợp kể trên, thì xử trí như sau:
1) Ruộng đất đã phân tán vào tay
địa chủ thì tịch thu, trưng thu hoặc trưng mua tuỳ trường hợp, như đã quy định ở
điều 3 và điều 4.
Giá trưng mua ruộng đất phân tán
nói trên là nguyên giá lúc mua.
Giá trưng mua đó được trả cho địa
chủ đã mua ruộng đất phân tán bằng công phiếu.
2) Ruộng đất đã phân tán vào tay
phú nông thì trưng mua theo nguyên giá lúc mua.
Giá trưng mua sẽ trả dần trong
thời hạn không quá năm năm, bằng tiền hay hiện vật.
3) Ruộng đất đã phân tán vào tay
trung nông thì coi đó là việc trong nội bộ nông dân lao động, dùng lối thuyết
phục mà dàn xếp một cách thoả thuận, để trung nông tự động nhường lại cho nông
dân không có ruộng đất hoặc thiếu ruộng đất.
Khi trung nông nhường lại, thì
phải đảm bảo cho họ còn số diện tích không dưới mức bình quân chiến hữu hiện
nay của trung nông trong xã.
Trung nông nhường ruộng đất được
Chính phủ đền bù bằng tiền hay hiện vật theo nguyên giá lúc mua.
4) Ruộng đất đã phân tán vào tay
bần cố nông thì không đụng đến.
5) Ruộng đất đã phân tán vào tay
tư sản dân tộc thì trưng mua theo nguyên giá lúc mua.
Giá trưng mua sẽ trả dần trong
thời hạn không quá năm năm, bằng tiền hay hiện vật.
6) Ruộng đất đã phân tán vào tay
các tầng lớp tiểu tư sản, thì thuyết phục họ tự động nhường lại cho nông dân
không có ruộng đất hoặc thiếu ruộng đất.
Nếu họ không đủ sống với nghề
chính, thì phải để lại cho họ một phần ruộng đất để bù cho họ đủ sống.
Người nhường ruộng đất được
Chính phủ đến bù bằng tiền hay hiện vật theo nguyên giá lúc mua.
Điều 6.
- Từ ngày ban hành sắc lệnh phát
động quần chúng thực hiện giảm tô (12 tháng 4 năm 1953), những việc phân tán ruộng
đất trái phép của địa chủ đều không được thừa nhận.
Ruộng đất địa chủ phân tán trái
phép bị tịch thu.
Địa chủ trái phép phải bồi thường
thiệt hại cho người đã nhận ruộng đất phân tán đó.
Điều 7.
- Nay xóa bỏ nợ mà nông dân lao
động và các tầng lớp nghèo ở nông thôn đã vay của địa chủ.
Điều 8.
- Nay xoá bỏ độc quyền mặt biển
và khúc sông.
Mục 4: ĐỐI VỚI
RUỘNG ĐẤT CÔNG VÀ NỬA CÔNG NỬA TƯ VÀ RUỘNG ĐẤT CỦA TÔN GIÁO.
Điều 9.
- Trưng thu:
- Công điền, công thổ;
- Ruộng phe, ruộng giáp, ruộng
xóm; ruộng tư văn, tư vũ, lộc điền; ruộng hậu, ruộng họ, ruộng môm sinh, v.v..
- Ruộng đất của các đoàn thể.
Điều 10.
Ruộng đất của tôn giáo
(Nhà Chung, nhà chùa, thánh thất, tu viên, v.v...) thì trưng thu và trưng mua.
Trường hợp có mua chính đáng thì
trưng mua.
Mục 5: ĐỐI VỚI
CÁC LOẠI RUỘNG ĐẤT VÀ TÀI SẢN KHÁC. RUỘNG ĐẤT VÀ TÀI SẢN CỦA ĐỊA CHỦ KIÊM NHÀ
CÔNG THƯƠNG NGHIỆP VÀ CỦA NHÀ CÔNG THƯƠNG NGHIỆP KIÊM ĐỊA CHỦ
Điều 11.
- Để khuyến khích sản xuất và
phát triển kinh tế quốc dân, công thương nghiệp được bảo hộ.
Không đụng đến công thương nghiệp
của địa chủ.
Không đụng đến đất đại trực tiếp
dùng vào việc kinh doanh công thương nghiệp.
Những ruộng đất khác của địa chủ
kiêm nhà công thương nghiệp và của nhà công thương nghiệp kiêm địa chủ thì
trưng mua.
Ruộng đất và tài sản của những
người có ít ruộng đất phát canh hoặc thuê người làm.
Điều 12.
- Những nGười có ít ruộng đất,
nhưng vì tham gia công tác kháng chiến, vì thiếu sức lao động, vì bận làm nghề
khác mà phải phát canh hoặc thuê người làm, thì không coi là địa chủ.
Không đụng đến ruộng đất và tài
sản của họ.
Ruộng đất và tài sản của phú
nông.
Điều 13.
- Kinh tế phú nông được bảo tồn.
Không đụng đến ruộng đất, trâu
bò, nông cụ và tài sản khác của phú nông.
Ruộng đất và tài sản của trung
nông
Điều 14.
- Bảo hộ ruộng đất, trâu bò,
nông cụ và tài sản khác của trung nông.
Trung nông thiếu ruộng đất được
chia thêm ruộng đất.
Mục 6: ĐỐI VỚI
RUỘNG VẮNG CHỦ VÀ RUỘNG ĐẤT BỎ HOANG RUỘNG ĐẤT VẮNG CHỦ
Điều 15.
- Trưng thu ruộng đất của địa chủ
không rõ tông tích.
Điều 16.
- Đối với ruộng đất của địa chủ
vắng mặt vì tham gia công tác kháng chiến và của địa chủ tản cư ở vùng tự do mà
không phải là Việt gian, phản động, cường hào gian ác, thì trưng mua.
Điều 17.
- Đối với ruộng đất ở vùng tự do
của địa chủ hiện nay ở vùng tạm bị chiếm, thì tuỳ thái độ chính trị của từng
người mà tịch thu, trưng thu hoặc trưng mua.
Nếu là Việt gian, phản động, cường
hào gian ác, thì xử trí như đã quy định ở điều 3.
Nếu không phải là Việt gian, phản
động, cường hào gian ác, thì trưng mua, như đã quy định ở điều 4.
RUỘNG ĐẤT BỎ HOANG
Điều 18.
- Trưng thu ruộng đất của địa chủ
bỏ hoang bất cứ vì lý do gì.
Ruộng đất không phải của địa chủ
mà bỏ hoang quá hai năm không có lý do chính đáng thì trưng thu.
Mục 7:
ĐỐI VỚI RUỘNG ĐẤT VÀ TÀI SẢN CỦA NGOẠI KIỀU.
Điều 19.
- Về nguyên tắc, ngoại kiều
không có quyền chiếm hữu ruộng đất ở Việt Nam.
Ngoại kiều được phép sử dụng ruộng
đất ở Việt Nam.
Ngoại kiều nông dân từ trước đến
nay sống ở nông thôn về nghề cày cấy, trồng trọt, nếu làm mọi bổn phận như người
Việt Nam thì được quyền sở hữu ruộng đất.
Điều 20.
- Đối với địa chủ ngoại kiều hợp
tác với địch hoặc là phản động, cường hào gian ác, thì tịch thu toàn bộ hoặc một
phần ruộng đất và tài sản, tuỳ tội nặng nhẹ.
Phần không tịch thu thì trưng
mua.
Đối với địa chủ ngoại kiều không
hợp tác với địch, không phải là phản động, cường hào gian ác, thì trưng mua
toàn bộ ruộng đất, trâu bò và nông cụ.
Chương 3:
CÁCH CHIA RUỘNG ĐẤT
Mục 1: RUỘNG
ĐẤT, TÀI SẢN CHIA, VÀ RUỘNG ĐẤT, TÀI SẢN KHÔNG CHIA.
Điều 21.
- Trừ trường hợp quy định ở điều 22, những thứ tịch thu, trưng thu, trưng mua đều chia cho
công dân:
1) Ruộng đất, trâu bò, nông cụ
và tài sản khác.
2) Đồi, vườn trồng cây ăn quả,
trồng chè, chẩu, cọ, sơn, dó, v.v...
Gặp trường hợp chia mà có hại
cho sản xuất thì không chia.
Nếu không chia, thi do chính quyền
quản lý, hoặc chính quyền giao cho chủ cũ quản lý.
Điều 22.
- Những thứ không chia:
1) Ruộng đất trồng trọt bằng máy
móc; đồn điền trồng cà phê, cao su hoặc trồng cây công nghiệp khác; vườn trồng
cây ăn quả bằng kỹ thuật tiến bộ; đồn điền thí nghiệm, bãi phi lao ở bờ biển,
v.v...
2) Rừng núi lớn, hầm mỏ; hồ lớn,
sông ngòi, công trình thuỷ lợi, đê điều; đất ở ven đường xe lửa, đường xá, đất
thuộc các đô thị, thị trấn, đất dùng vào các công trình lợi ích chung, v.v...
3) Cảnh vật có tiếng trong lịch
sử, hoặc có giá trị về văn hoá, lâu đài, đền, miếu; sách vở tài liệu chính trị
và văn hoá, v. v..., nghĩa địa và lăng tẩm, v.v...
Đất đai, nhà cửa và tài sản kể
trên là của nhà nước và của chung nhân dân, do chính quyền quản lý.
Điều 23.
- Tr ong khi chia phải để lại ở
mỗi xã một số ruộng đất để dùng vào những việc sau đây: đón thương binh về
làng; dự phòng sau này chia cho những người ở xa về; làm trụ sở cho cơ quan,
làm trường học v.v...
Điều 24.
- Ruộng đất do nông dân và các tầng
lớp nhân dân lao động khác khai phá từ Cách mạng Tháng Tám thuộc quyền sở hữu của
những người đã có công khai phá.
Không được đụng đến ruộng đất đó.
Mục 2: NGƯỜI
ĐƯỢC CHIA
Điều 25.
- Những người sau đây được chia:
1) Nông dân không có ruộng đất
hoặc thiếu ruộng đất: bần cố nông và trung nông thiếu ruộng đất.
Phú nông làm tá điền thiếu ruộng
đất cũng được chia.
2) Đối với những tầng lớp nghèo ở
nông thôn (người làm nghề thủ công, người làm hàng xay hàng xáo, người buôn
thúng, bán mẹt, người làm nghề đánh cá, người làm nghề tự do, v.v...), nếu
không đủ sống và có sức cày cấy, thì được chia một phần để bù thêm cho đủ sống.
3) Những người sau đây, nếu gia
đình họ ở nông thôn và thuộc hạng được chia, thì được chia một phần ngang với
phần chia cho nông dân:
a) Liệt sĩ, quân nhân cách mạng,
thương binh, bệnh binh.
b) Cán bộ chính quyền và đoàn thể;
nhân viên phục vụ kháng chiến, công nhân các xí nghiệp quốc doanh.
4) Công nhân thất nghiệp, và gia
đình họ ở nông thôn, nếu không có nghề khác để sống và có sức cày cấy, thì được
chia.
5) Những người tản cư về nông
thôn, nếu không đủ sống, có sức cày cấy, yêu cầu được chia, và nông dân nơi họ
tản cư đồng ý, thì cũng được chia.
Họ chỉ được phép sử dụng mà
không có quyền sở hữu ruộng đất được chia.
6) Nhà Chung, nhà chùa, từ đường
họ, và các cơ quan tôn giáo khác, được để lại một phần ruộng đất để dùng vào việc
thờ cúng.
Phần ruộng đất ấy do nhân dân địa
phương bình nghị và Uỷ ban Kháng chiến Hành chính tỉnh xét định.
Trường hợp đặc biệt quan trọng
do cấp trên quyết định.
Những người làm nghề tôn giáo, nếu
không đủ sống, có sức cày cấy và yêu cầu, thì được chia một phần ruộng đất ở
nơi họ hoạt động, hoặc ở quê quán họ.
7) Nhân sĩ dân chủ, địa chủ
kháng chiến, địa chủ thường, và gia đình của họ, được chia một phần xấp xỉ với
phần chia cho nông dân.
Nhân sĩ dân chủ, địa chủ kháng
chiến được chiếu cố một cách thích đáng.
8) Việt gian, phản động, cường
hào gian ác bị xử phạt trên năm năm tù thì không được chia; từ năm năm tù trờ
xuống thì được chia.
Gia đình họ vẫn được chia.
9) Gia đình ngụy binh ở nông
thôn thuộc hạng được chia, thì cũng được chia.
Ngụy binh cũng được chia một phần
ruộng đất. Nhưng khi họ chưa bỏ hàng ngũ ngụy quân trở về với Tổ quốc, thì ruộng
đất ấy do Uỷ ban Kháng chiến Hành chính hay Nông Hội xã tạm giữ.
10) Ngoại kiều và gia đình họ, nếu
không có nghề đủ sống, có sức cày cấy, và yêu cầu, thì được chia một phần ruộng
đất.
Mục 3:
NGUYÊN TẮC CHIA
Điều 26.
- Nguyên tắc chia là:
- Thiếu nhiều chia nhiều, thiếu
ít chia ít, không thiếu không chia;
- Chia trên cơ sở nguyên canh,
rút nhiều bù ít, rút tốt bù xấu, rút gần bù xa;
- Chia theo nhân khẩu chứ không
theo sức lao động;
- Lấy số diện tích bình quân và
số sản lượng bình quân ở địa phương làm tiêu chuẩn để chia;
- Chia theo đơn vị xã; song nếu
xã ít người nhiều ruộng, thì có thể san sẻ một phần cho xã khác ít ruộng nhiều
người, sau khi đã chia đủ cho nông dân trong xã.
Điều 27.
- Trong khi chia ruộng đất, phải
chiếu cố đến quyền lợi của tá điền trung nông.
Khi rút phần ruộng đất mà tá điền
trung nông đang cày cấy, thì phải để lại cho họ một phần; phần ruộng đất để lại
cộng với số ruộng đất tư của họ phải nhiều hơn số bình quân được chia một ít và
không quá số bình quân chiếm hữu của mỗi nhân khẩu trong xã.
Điều 28.
- Liệt sĩ, quân nhân cách mạng,
thương binh, bệnh binh được ưu đãi trong khi chia.
Gia đình của họ được chiếu cố.
Điều 29.
- Đối với những nhà nông dân nghèo
chỉ có một hai người mà có sức lao động, nếu xã có đủ ruộng đất thì có thể chia
cho họ nhiều hơn phần của những người khác.
Điều 30.
- Để khuyến khích tăng gia
sản xuất, ruộng đất vỡ hoang chưa quá ba năm của nông dân không tính vào số ruộng
đất của họ trong khi chia.
Mục 4: QUYỀN CỦA NGƯỜI ĐƯỢC CHIA.
Điều 31.
- Người được chia ruộng đất có
quyền sở hữu ruộng đất đó, và không phải trả cho địa chủ hay chính quyền bất cứ
một khoản nào.
Chính quyền cấp giấy chứng nhận
quyền sở hữu ấy cho người được chia. Mọi khế ước cũ đều huỷ bỏ.
Người được chia có quyền chia
gia tài, cầm, bán, cho, v.v... ruộng đất được chia.