BỘ
THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
48-TBXH
|
Hà
Nội, ngày 30 tháng 9 năm 1985
|
THÔNG TƯ
CỦA
BỘ THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI SỐ 48-TBXH NGÀY 30 THÁNG 9 NĂM 1985 HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN
NGHỊ ĐỊNH SỐ 236-HĐBT CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG NGÀY 18 THÁNG 9 NĂM 1985
Ngày 18-9-1985, Hội đồng Bộ
trưởng đã ban hành Nghị định số 236-HĐBT bổ sung, sửa đổi một số chế độ, chính
sách về thương binh và xã hội,
Căn cứ vào Điều 31 của Nghị định, Bộ Thương binh và xã hội hướng dẫn cụ thể
việc thực hiện như sau:
VỀ LƯƠNG HƯU
A. ĐIỀU KIỆN
NGHỈ HƯU
Điều 1 và Điều 2 của Nghị định số
236-HĐBT quy định và các điều kiện nghỉ hưu; dưới đây nói rõ về những điều kiện
đó:
I. TUỔI NGHỈ
HƯU CỦA CÔNG NHÂN VIÊN CHỨC
1. Trường hợp có đủ thời gian
công tác quy định tại Điều 1 của Nghị định số 236-HĐBT, trong đó có đủ 15 năm
làm công việc độc hại nặng nhọc, hoặc có đủ 15 năm làm việc ở vùng khó khăn
gian khổ thì nam có thể được nghỉ hưu ở tuổi 55 và nữ ở tuổi 50 (giảm 5 tuổi đời).
Nếu có đủ thời gian công tác,
trong đó có đủ 20 năm làm công việc đặc biệt độc hại, nặng nhọc hoặc có đủ 20
năm làm việc ở vùng có nhiều khó khăn, gian khổ thì nam có thể được nghỉ hưu ở
tuổi 50 và nữ ở tuổi 45 (giảm 10 tuổi đời).
Công việc độc hại nặng nhọc và
công việc đặc biệt độc hại, nặng nhọc thực hiện theo quy định của Bộ Lao động.
Vùng khó khăn, gian khổ là những
vùng có phụ cấp khu vực 20%; vùng có nhiều khó khăn, gian khổ là vùng có phụ cấp
khu vực 25% hoặc có phụ cấp chiến đấu từ 10% đến 20% theo các quy định ban hành
kèm theo Nghị định số 235-HĐBT ngày 18-9-1985 của Hội đồng Bộ trưởng về cải tiến
chế độ tiền lương, hoặc ở các đảo xa nói trong Thông tư số 16-TBXH của Bộ
thương binh và xã hội ngày 14-5-1981.
2. Nam và nữ công nhân, viên chức
có đủ thời gian công tác nói tại Điều 1 của Nghị định 236-HĐBT bị mất sức lao động
từ 61% trở lên vì bị thương, bị tai nạn hoặc vì ốm đau thì tuy chưa đủ điều kiện
về tuổi đời cũng được nghỉ hưu.
II. TUỔI NGHỈ
HƯU CỦA QUÂN NHÂN
1. Trường hợp có đủ điều kiện về
thời gian công tác theo quy định tại Điều 1 của Nghị định số 236-HĐBT trong đó
có 15 năm ở chiến trường, ở vùng khó khăn, gian khổ hoặc có 15 năm làm việc độc
hại, nặng nhọc trong các đơn vị quân đội, trong xây dựng công trình quốc phòng,
trong sản xuất công nghiệp quốc phòng (quy định tại Thông tư số 111-QP ngày
19-4-1965 của Bộ Quốc phòng) thì nam có thể được nghỉ hưu ở tuổi 50, nữ ở tuổi
45 (giảm 5 tuổi đời).
2. Nam và nữ quân nhân có đủ thời
gian công tác nói tại Điều 1 của Nghị định số 236-HĐBT, bị giảm sút sức khoẻ vì
bị thương, hoặc vì ốm đau thì tuy chưa đủ điều kiện về tuổi đời cũng được nghỉ
hưu.
III. VỀ THỜI
GIAN CÔNG TÁC
1. Điều kiện về thời gian công
tác (trước đây gọi là thời gian công tác liên tục) để được nghỉ hưu nói tại Điều
1 của Nghị định số 236-HĐBT và trong Thông tư này là thời gian công tác đã được
tính theo hệ số, là điều kiện nghỉ hưu, là cơ sở tính lương hưu và trợ cấp 1 lần
khi mới nghỉ hưu.
2. Nhằm ưu đãi những người có thời
gian chiến đấu và lao động qua các thời kỳ kháng chiến, trong những ngành nghề
độc hại, nặng nhọc, ở những địa bàn có chiến sự và những vùng xa xôi hẻo lánh
có nhiều khó khăn, gian khổ, thời gian công tác trong những điều kiện nói trên
được tính theo hệ số như sau:
a. 1 năm thực tế công tác được
tính thêm 6 tháng (thành 18 tháng. Nói cách khác: có 8 tháng thực tế công tác
được tính thành 1 năm). Hệ số này được dùng để tính thời gian công tác cho cán
bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp;
trong những thời gian chiến đấu ở các chiến trường; trong những thời gian lao động
trong các ngành nghề đặc biệt độc hại, nặng nhọc, theo danh mục ngành nghề được
quy định tại Thông tư số 111-QP ngày 19-4-1965 của Bộ Quốc phòng; trong những
thời gian làm nhiệm vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu tại những địa bàn có phụ
cấp chiến đấu từ 10% đến 20% hoặc hoạt động ở những vùng xa xôi hẻo lánh có nhiều
khó khăn, gian khổ, có phụ cấp khu vực 25%.
Hệ số này cũng được dùng để tính
thời gian công tác cho công nhân, viên chức Nhà nước có thời gian hoạt động
trong kháng chiến chống Pháp; ở các chiến trường miền Nam, Lào, Căm-pu-chia
trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ từ tháng 7-1954 đến hết tháng 4-1975; làm
nhiệm vụ ở biên giới Tây nam từ tháng 5-1975 đến hết năm 1978 và ở biên giới
phía Bắc từ tháng 2-1979 trở đi; làm việc trong những ngành nghề được xếp vào
loại đặc biệt độc hại, nặng nhọc trong các thang bảng lương mới ban hành hoặc
được xếp trong danh mục ngành nghề loại V trong bảng phân loại lao động do Bộ
Lao động công bố kèm theo Quyết định số 278-LĐ-QĐ ngày 13-11-1976; làm nhiệm vụ
ở những vùng xa xôi hẻo lánh có nhiều khó khăn gian khổ có phụ cấp khu vực 25%
hoặc có phụ cấp chiến đấu từ 10 đến 20% theo các quy định mới ban hành kèm theo
Nghị định số 235-HĐBT ngày 18-9-1985 về cải tiến chế độ tiền lương.
Hệ số này cũng được dùng để tính
thời gian công tác của công nhân, viên chức, quân nhân được cử đi hoạt động và
làm chuyên gia ở Lào và Căm-pu-chia trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ.
b. 1 năm thực tế công tác được
tính thêm 4 tháng (thành 16 tháng. Nói cách khác: có 9 tháng thực tế công tác
được tính thành 1 năm).
Hệ số này được dùng để tính thời
gian công tác cho cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang trong những thời
gian phục vụ trong quân ngũ.
Hệ số này cũng được dùng để tính
thời gian công tác cho công nhân, viên chức Nhà nước có thời gian tham gia
kháng chiến chống Mỹ tại các vùng thường xuyên có chiến sự ở miền Bắc được quy
định tại Thông tư số 39-BT ngày 21-4-1982 của Bộ trưởng Tổng thư ký Hội đồng Bộ
trưởng hướng dẫn thi hành Điều lệ khen thưởng tổng kết thành tích chống Mỹ cứu
nước (cụ thể là: Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, và khu Vĩnh Linh tính từ ngày
5-8-1964 đến ngày 28-1-1973); làm việc trong những ngành nghề độc hại được xếp
trong các thang bảng lương mới ban hành hoặc các ngành nghề được xếp trong danh
mục ngành nghề loại IV theo quy định của Bộ Lao động; làm nhiệm vụ ở những vùng
có phụ cấp khu vực 20%.
c. 1 năm thực tế công tác được
tính thêm 2 tháng (thành 14 tháng. Nói cách khác: có 11 tháng thực tế công tác
được tính thành 1 năm).
Hệ số này được dùng để tính thời
gian công tác cho những công nhân, viên chức Nhà nước có thời gian tham gia
kháng chiến chống Mỹ ở miền Bắc; làm nhiệm vụ ở những vùng có phụ cấp khu vực
15%.
d. Nếu không có các điều kiện đặc
biệt về chiến đấu và lao động nói ở trên, thì thời gian công tác vẫn theo thông
thường: 1 năm là 12 tháng.
3. Những cán bộ có thời gian hoạt
động từ tháng 1-1945 đến ngày khởi nghĩa, chưa được xếp vào diện cán bộ hoạt động
cách mạng trước tháng 8-1945 để được hưởng trợ cấp ưu đãi, được lấy quãng thời
gian này để tính vào thời gian công tác. Có từ 1 đến 8 tháng hoạt động trong thời
gian này đều được tính là có 1 năm công tác.
B. LƯƠNG HƯU
Căn cứ vào Điều 3 của Nghị định
số 236-HĐBT và căn cứ vào những quy định còn hiệu lực thi hành, thì từ 1-9-1985
trở đi, lương hưu và các khoản trợ cấp khác của công nhân, viên chức và quân
nhân nghỉ hưu được tính như sau:
1. Lương hưu hàng tháng:
Cơ sở để tính lương hưu hàng
tháng là lương chính và phụ cấp thâm niên (nếu có), ở tháng cuối cùng trước khi
về hưu.
a. Trường hợp do sức khoẻ giảm
sút hoặc do yêu cầu công tác phải chuyển sang làm công việc khác hưởng lương thấp
hơn mức cũ thì được lấy mức lương cao nhất đã hưởng trong vòng 10 năm trước khi
nghỉ hưu (theo quy định của Điều lệ tạm thời về chế độ bảo hiểm xã hội ban hành
năm 1962),
b. Phụ cấp
thâm niên gồm thâm niên đặc biệt và thâm niên vượt khung quy định tại điểm 3,
điểm 4 - Điều 5 - Nghị định số 235-HĐBT.
Những người khi về nghỉ hưu
không có phụ cấp thâm niên, nhưng trước đó trong quy trình công tác đã có thời
kỳ làm việc trong một ngành nghề có quy định được hưởng phụ cấp thâm niên, và bản
thân đã có phụ cấp thâm niên, thì nay được lấy phụ cấp thâm niên cũ đã hưởng
chuyển đổi sang mức mới (giữ nguyên tỷ lệ đã hưởng, còn lương thì chuyển đổi
sang mức mới ở cùng thang bậc) và cộng với lương chính hiện nay để làm cơ sở
tính lương hưu.
2. Trợ cấp một lần khi mới nghỉ
hưu:
Sau thời gian nghỉ hưởng nguyên
lương, tất cả công nhân, viên chức và quân nhân (kể cả những người đã công tác ở
nước ngoài) khi mới nghỉ hưu được hưởng khoản trợ cấp một lần tính trên tiền
lương chính cộng với tất cả các khoản phụ cấp đang hưởng:
- Có đủ 25 năm công tác được trợ
cấp 2 tháng - Có đủ 30 năm công tác được trợ cấp 3 tháng
- Có 35 năm công tác trở lên được
trợ cấp 4 tháng.
3. Các phụ cấp khác ngoài lương
hưu:
Ngoài lương hưu, các cán bộ hoạt
động cách mạng trước tháng 8-1945, các Anh hùng lực lượng vũ trang và Anh hùng
lao động về nghỉ hưu, nghỉ mất sức còn được hưởng phụ cấp ưu đãi quy định tại Điều
4 của Nghị định.
Trường hợp vừa là Anh hùng vừa
là cán bộ hoạt động cách mạng trước tháng 8-1945 thì được hưởng cả hai khoản phụ
cấp ưu đãi.
C. TÍNH LẠI
LƯƠNG HƯU HÀNG THÁNG ĐỐI VỚI NGƯỜI ĐÃ VỀ NGHỈ HƯU TRƯỚC NGÀY 1-9-1985.
Điều 5 của Nghị định quy định
công nhân, viên chức và quân nhân đã nghỉ hưu trước ngày 1-9-1985 được tính lại
lương hưu hàng tháng, dưới đây nói cụ thể cách thực hiện:
1. Cơ sở để tính lại lương hưu:
a. Lấy mức lương chính của công
nhân, viên chức và quân nhân đã được dùng làm cơ sở để tính "trợ cấp hưu
trí" khi nghỉ hưu, chuyển đổi sang mức lương mới cùng thang bậc theo một
văn bản hướng dẫn riêng của Bộ Thương binh và xã hội.
Lấy mức lương mới cộng với phụ cấp
thâm niên (nếu có, và đã nói rõ tại Mục B, Điều 1, điểm b của Thông tư này) để
làm cơ sở tính lại lương hưu.
b. Công nhân, viên chức nghỉ hưu
đang còn hưởng khoản phụ cấp chuyển ngành theo Quyết định số 178-CP ngày số
20-7-1974 và quân nhân nghỉ hưu đang hưởng khoản phụ cấp thâm niên được quy định
tại Quyết định số 21-HĐBT ngày 8-8-1981 nay không hưởng nữa, mà được cộng phụ cấp
thâm niên vào lương chính để tính lương hưu.
2. Tính lại lương hưu của người
nghỉ hưu trước đây hưởng "trợ cấp hưu trí" bằng một khoản tiền ấn định
(thuộc diện thi hành theo Thông tư số 11-NV ngày 20-9-1966 của Bộ Nội Vụ, nay
là Bộ Thương binh và xã hội) thì Giám đốc Sở Thương binh và xã hội đề nghị Uỷ
ban nhân dân tỉnh, thành phố và đặc khu trực thuộc Trung ương ấn định lại khoản
lương hưu mới tương ứng; thấp nhất cũng bằng 132 đồng, cao nhất không quá lương
trung bình. Khoản này tính vào ngân sách Trung ương.
3. Việc tính lại tỷ lệ phần trăm
(%) đối với trường hợp xét có lợi cho cán bộ:
Công nhân, viên chức và quân
nhân đã nghỉ hưu trước ngày 1-9-1985, nếu có đủ căn cứ để tính đổi thời gian
công tác theo quy định tại Điều 1 của Nghị định số 236-HĐBT thì được tính lại mức
tỷ lệ phần trăm (%) như quy định tại Điều 3 của Nghị định. Nếu tính lại mà thấp
hơn mức tỷ lệ phần trăm (%) đã hưởng trước đây thì được giữ mức tỷ lệ phần trăm
(%) cũ để tính lương hưu trên cơ sở lương được chuyển đổi sang mức mới cùng
thang bậc.
4. Việc giải quyết những khoản
phụ cấp khác ngoài lương hưu:
Trường hợp công nhân, viên chức
và quân nhân nghỉ hưu có hưởng các khoản phụ cấp khác (như phụ cấp thương tật,
phụ cấp vì mắc bệnh nghề nghiệp, phụ cấp vì có hành động dũng cảm mà bị thương)
thì được giải quyết theo quy định đối với thương binh và người bị tai nạn lao động,
bị bệnh nghề nghiệp. Riêng khoản phụ cấp cho người nghỉ hưu là thương binh hạng
1 mà cần có người phục vụ trong sinh hoạt thì được tiếp tục thực hiện theo mức
trợ cấp mới.
TRỢ CẤP THƯƠNG TẬT
I. VIỆC ĐỊNH
LẠI CÁC HẠNG THƯƠNG TẬT
1. Điều 6 của Nghị định số
236-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng quy định thương binh được xếp thương tật theo 4
hạng.
Tiêu chuẩn của 4 hạng thương tật
theo quy định cụ thể của Bộ Y tế và Bộ Thương binh và xã hội.
2. Tiêu chuẩn thương tật 4 hạng
thay thế cho hai loại tiêu chuẩn 6 hạng và 8 hạng trước đây và được áp dụng thống
nhất cho tất cả thương binh của các thời kỳ.
II. TRỢ CẤP
THƯƠNG TẬT
1. Với thương binh ở diện hưởng
lương, mức trợ cấp và căn cứ để tính trợ cấp đã được quy định rõ tại Điều 7 của
Nghị định số 236-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng.
2. Với thương binh ở diện hưởng
sinh hoạt phí, Điều 7 của Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng quy định trợ cấp được
tính trên mức ấn định là 250 đồng; trên cơ sở đó, mức cụ thể xem phụ lục số 1.
Trường hợp đặc biệt có mức sinh
hoạt phí cao hơn 250 đồng thì được lấy mức đó làm cơ sở tính trợ cấp thương tật
(điều này áp dụng cho cả trường hợp tính trợ cấp bệnh binh và trợ cấp quân nhân
phục viên).
3. Những trường hợp bị thương nhẹ,
có tỷ lệ thương tật từ 5% đến 20%, được trợ cấp một lần như quy định tại Điều lệ
tạm thời về các chế độ đãi ngộ quân nhân ban hành bằng Nghị định số 161-CP ngày
30-10-1964, Nghị định số 08/NĐ-76 của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền
Nam Việt Nam ngày 17-6-1976 và Thông tư liên Bộ Quốc phòng - Công an - Nội vụ số
104-LB-QP ngày 12-4-1965. Cụ thể, tuỳ theo tỷ lệ mất sức lao động, thương binh
loại A và thương binh loại B được trợ cấp một lần một khoản tiền bằng từ 1 đến
3 tháng lương chính khi bị thương cộng với phụ cấp thâm niên (nếu có); xem phụ
lục số 2.
Người không có lương được lấy mức
ấn định 250 đồng làm cơ sở tính trợ cấp.
III. MỘT SỐ
PHỤ CẤP NGOÀI TRỢ CẤP THƯƠNG TẬT
Về Điều 8 của Nghị định số
236-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng nay hướng dẫn cụ thể như sau:
1. Thương binh hạng 1 được nuôi
dưỡng ở gia đình, phường, xã, ngoài trợ cấp thương tật hàng tháng còn được phụ
cấp thêm khoản tiền 70 đồng cho người phục vụ. Khoản tiền này thay cho khoản phụ
cấp hàng tháng cho người phục vụ quy định tại Thông tư số 24-TBXH ngày
19-3-1984 của Bộ Thương binh và xã hội.
2. Thương binh hạng 1 được nuôi
dưỡng ở gia đình, phường, xã được cấp một lần một khoản tiền để mua sắm những
phương tiện sinh hoạt cần thiết. Khoản tiền này được tính theo giá trị một số vật
dụng được quy định như sau: 1 giường đôi, và 1 tủ con để đầu giường bằng loại gỗ
nhóm 4, 1 màn đôi sợi bông, 1 chiếu đôi, 1 chậu rửa mặt bằng sắt tráng men hoặc
nhựa, 1 bộ ấm chén trà nội địa.
Những vật dụng nói trên tính
theo giá của từng địa phương trong từng thời gian, nhiều nhất không vượt quá số
tiền ấn định tạm thời là 1.500 đồng.
3. Thương binh có hành động dũng
cảm mà bị thương, khi về gia đình được phụ cấp ưu đãi một lần bằng:
- 2 tháng lương, gồm lương chính
và phụ cấp thâm niên (nếu có) khi bị thương.
- 500 đồng nếu thương binh thuộc
diện hưởng sinh hoạt phí khi bị thương.
Quy định trên đây của Nghị định
số 236-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng thay cho quy định phụ cấp ưu đãi nói ở Điều
15 Điều lệ tạm thời về các chế độ đãi ngộ quân nhân ban hành kèm theo Nghị định
số 161-CP ngày 30-10-1964 và ở điểm 3, Điều 4, Nghị định số 08-NĐ-76 ngày
17-6-1976.
- Những thương binh có hành động
dũng cảm mà bị thương đã được xác nhận trước đây, đã về gia đình (kể cả thương
binh hưởng lương hưu hoặc hưởng chế độ bệnh binh, chế độ trợ cấp mất sức lao động)
thì kể từ ngày ban hành Nghị định số 236-HĐBT thôi không hưởng trợ cấp hàng
tháng và chuyển sang hưởng phụ cấp ưu đãi một lần theo quy định tại Nghị định số
236-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng.
4. Thực hiện việc chăm sóc chung
đời sống các thương binh, nếu có thương binh hạng 4 về gia đình cư trú ở thành
phố, thị xã gặp nhiều khó khăn về sinh sống hoặc gặp khó khăn đột xuất thì Giám
đốc Sở Thương binh và xã hội xem xét cụ thể từng trường hợp, có thể quyết định
trợ cấp khó khăn một lần hoặc nhiều lần với mức từ 20 đến 30 đồng một tháng cho
một người.
IV. TÍNH LẠI
TRỢ CẤP THƯƠNG TẬT CHO NHỮNG THƯƠNG BINH ĐÃ ĐƯỢC XÁC NHẬN TRƯỚC NGÀY 1-9-1985
Theo Điều 9 của Nghị định số
236-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, thương binh đã được xác nhận trước ngày Nghị định
có hiệu lực thì chuyển sang xếp hạng thương tật theo quy định ở Điều 6 và căn cứ
vào mức lương cũ khi bị thương chuyển đổi sang mức lương mới cùng thang bậc
lương để tính lại trợ cấp thương tật.
Nay hướng dẫn cụ thể như sau:
1. Hai Bộ Y tế - Thương binh và
Xã hội đã thống nhất ý kiến về việc xếp lại 8 hạng và 6 hạng thương tật trước
đây sang 4 hạng như sau:
a. Các hạng 8/8, 7/8, đặc biệt/6
và 1/6 cũ được chuyển sang xếp hạng 1 mới.
b. Các hạng 6/8, 5/8 và 2/6 được
chuyển sang xếp hạng 2 mới c. Các hạng 4/8, 3/8 và 3/6 được chuyển sang xếp hạng
3 mới
d. Các hạng 2/8, 1/8, 4/6 và 5/6
được chuyển sang xếp hạng 4 mới.
Riêng với các thương binh hạng
6/8 đang hưởng chế độ nuôi dưỡng tại trại hay tại gia đình nay xếp hạng 2 vẫn
giữ các chế độ đang hưởng.
2. Việc chuyển đổi mức lương và
tính lại trợ cấp thương tật được thực hiện như sau:
a. Đối với những thương binh hưởng
lương thì căn cứ vào mức lương cũ khi bị thương chuyển đổi sang mức lương mới ở
cùng thang bậc lương cộng với phụ cấp thâm niên (nếu có) để tính lại trợ cấp
thương tật theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 236-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng
và theo hướng dẫn nói tại mục II, chương nói về trợ cấp thương tật của Thông tư
này.
b. Đối với thương binh chống
Pháp khi bị thương là cán bộ từ trung đội trưởng trở lên, trước đây hưởng trợ cấp
thương tật như thương binh thuộc diện hưởng sinh hoạt phí thì nay được căn cứ
vào chức vụ khi bị thương chuyển đổi sang mức lương mới của cấp quân hàm tương
đương (xem phụ lục số 3) để tính lại trợ cấp thương tật.
c. Đối với thương binh thuộc diện
hưởng sinh hoạt phí thì được tính lại trợ cấp thương tật trên mức lương thống
nhất là 250 đồng.
3. Những thương binh trước đây
đã được xếp hạng 6/8 nếu về gia đình đã hưởng khoản phụ cấp hàng tháng 80 đ (tiền
cũ) vì cần người phục vụ (theo Thông tư 24-TBXH ngày 19-3-1984) nay được cấp
hàng tháng với mức 70 đồng (tiền mới).
4. Đối với những người bị thương
trước ngày 1-9-1985 nhưng sau ngày đó mới giám định thương tật và được xác nhận
là thương binh, cách tính trợ cấp như sau:
a. Khoảng thời gian trước ngày
1-9-1985: được xếp theo tiêu chuẩn 8 hạng; trợ cấp áp dụng theo chế độ và cách
tính toán đang thực hiện trước khi ban hành Nghị định số 236-HĐBT.
b. Khoảng thời gian từ 1-9-1985
trở về sau được trợ cấp theo quy định mới: Căn cứ vào tỷ lệ mất sức lao động do
thương tật, xếp theo 4 hạng thương tật và tính trợ cấp theo chế độ mới, được
quy định tại Điều 7 của Nghị định số 236-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng.
5. Những quy định về tiêu chuẩn
thương tật, chuyển hạng thương tật, trợ cấp thương tật, phụ cấp vì cần người phục
vụ... đối với thương binh, được áp dụng thống nhất đối với những người hưởng
chính sách như thương binh.
Thanh niên xung phong bị thương
trong tập luyện quân sự, bị thương vì tai nạn lao động, tai nạn chiến tranh được
xếp hạng thương tật và hưởng trợ cấp thương tật như thương binh loại B (theo
quy định của Thông tư số 26-TTg-CN ngày 27-2-1968 của Thủ tướng Chính phủ).
6. Quân nhân dự bị, dân quân tự
vệ không phải là công nhân, viên chức Nhà nước bị thương trong tập luyện quân sự
quy định ở điểm 2 Điều 61 Điều lệ tạm thời về chế độ đãi ngộ quân nhân ban hành
kèm theo Nghị định số 161-CP ngày 30-10-1964 và ở Điều 13 Nghị định số 8/NĐ-76
của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam ngày 17-6-1976, nay
được áp dụng tiêu chuẩn thương tật 4 hạng và được trợ cấp thương tật như sau:
+ Được trợ cấp hàng tháng:
- Hạng 1: 176 đồng - Hạng 2: 121
đồng
+ Được trợ cấp một lần:
- Hạng 3: 900 đồng - Hạng 4: 450
đồng
V. VIỆC GIẢI
QUYẾT MỘT SỐ NHU CẦU VỀ SINH HOẠT CỦA THƯƠNG BINH, BỆNH BINH, DO ĐIỀU KIỆN ĐẶC
BIỆT CỦA THƯƠNG TẬT VÀ BỆNH LÝ ĐẶT RA.
1. Những thương binh, bệnh binh
theo chỉ định của Y tế phục hồi được cấp những dụng cụ, phương tiện để bảo đảm
các yêu cầu riêng biệt về sinh hoạt phù hợp với đặc điểm thương tật và bệnh lý.
Đối tượng được cấp, danh mục và
niên hạn sử dụng các dụng cụ, phương tiện nói trên sẽ có văn bản hướng dẫn
riêng.
2. Thương binh được cấp tiền tầu,
xe trong những trường hợp sau đây:
- Đi khám, chữa bệnh.
- Đi làm chân tay giả và dụng cụ
chỉnh hình.
- Đi giám định lại vết thương
tái phát hoặc tạm thời; thương binh đi giám định lại thương tật theo giấy giới
thiệu của Sở Thương binh và Xã hội. - Thương binh đang an dưỡng ở các khu điều
dưỡng đi phép về thăm gia đình.
- Thương binh hạng 1 về an dưỡng
tại gia đình có nhiệm vụ về lại các khu điều dưỡng thương binh. Chi phí về các
khoản tầu, xe này do ngân sách ngành thương binh và xã hội đài thọ.
TRỢ CẤP ĐỐI VỚI BỆNH BINH VÀ
QUÂN NHÂN PHỤC VIÊN
A. BỆNH
BINH
I. ĐỐI TƯỢNG
HƯỞNG TRỢ CẤP BỆNH BINH
Điều 11 Nghị định số 236-HĐBT của
Hội đồng Bộ trưởng quy định đối tượng được hưởng chế độ bệnh binh và cách xếp hạng
bệnh binh.
Nay hướng dẫn cụ thể như sau:
1. Đối tượng được xác nhận là bệnh
binh gồm:
- Những cán bộ, chiến sĩ thuộc
Quân đội nhân dân
- Những cán bộ, chiến sĩ thuộc lực
lượng Công an nhân dân (kể từ 1-1-1975 trở đi) đã mất sức lao động từ 41% trở
lên, được cấp có thẩm quyền quyết định cho nghỉ việc về sinh sống ở gia đình.
2. Điều kiện về thời gian phục vụ
trong quân đội nhân dân, trong Công an nhân dân và về mất sức lao động, để được
xác nhận là bệnh binh, vẫn thực hiện theo các quy định đã có: Điều lệ tạm thời
về các chế độ đãi ngộ quân nhân ban hành kèm theo Nghị định số 161-CP của Hội đồng
Chính phủ ngày 30-10-1964, Nghị định 111B-CP của Hội đồng Chính phủ ngày
20-7-1967; Nghị định 10-NĐ-76 ngày 18-6-1976; Quyết định số 78-CP của Hội đồng
Chính phủ ngày 13-4-1978; Quyết định số 301-CP của Hội đồng Chính phủ ngày
20-9-1980...
3. Bệnh binh được xếp theo 3 hạng
như sau:
Hạng 1: mất từ 81% đến 100% sức
lao động
Hạng 2: mất từ 61% đến 80% sức
lao động Hạng 3: mất từ 41% đến 60% sức lao động
Tỷ lệ mất sức lao động do bệnh tật
được thực hiện theo bảng tiêu chuẩn phân hạng mất sức lao động do Bộ Y tế ban
hành kèm theo Thông tư số 32-BYT ngày 23-8-1976.
II. MỨC TRỢ CẤP
ĐỐI VỚI BỆNH BINH
1. Điều 22 Nghị định số 236-HĐBT
của Hội đồng Bộ trưởng quy định bệnh binh được hưởng trợ cấp hàng tháng như mức
trợ cấp của thương binh loại B khi về gia đình có cùng hạng mất sức lao động; mức
trợ cấp cụ thể xem phụ lục số 4.
2. Bệnh binh hạng 1 được nuôi dưỡng
ở gia đình, nếu bệnh trạng đến mức cần có người phục vụ thường xuyên thì hàng
tháng được phụ cấp thêm khoản tiền 70 đ cho người phục vụ. Việc xét bệnh binh
nào cần người phục vụ do Hội đồng Giám định y khoa tỉnh, thành phố đề nghị và cấp
có thẩm quyền quyết định.
3. Bệnh binh đồng thời là thương
binh được hưởng một trong hai khoản trợ cấp (trợ cấp bệnh binh, trợ cấp thương
binh) và được hưởng các quyền lợi ưu đãi khác quy định đối với thương binh.
III. VIỆC TÍNH LẠI TRỢ CẤP ĐỐI VỚI BỆNH BINH ĐÃ ĐƯỢC XÁC NHẬN
TRƯỚC NGÀY 1-9-1985
1. Những quân nhân đang hưởng chế
độ trợ cấp mất sức lao động theo Nghị định số 500/NĐ-LB của Liên Bộ Cứu tế xã hội
- Tài chính - Bộ Quốc phòng ngày 12-11-1958 và Nghị định số 523-TTg của Thủ tướng
Chính phủ ngày 6-12-1958; theo Điều lệ tạm thời về các chế độ đãi ngộ quân nhân
ban hành theo Nghị định số 161-CP của Hội đồng Chính phủ ngày 30-10-1964; theo
Nghị định số 10-NĐ-76 ngày 18-6-1976; và quân nhân được hưởng chế độ bệnh binh
theo Quyết định số 78-CP của Hội đồng Chính phủ ngày 13-4-1978 nay thống nhất gọi
là bệnh binh và được hưởng chế độ đối với bệnh binh quy định trong Nghị định số
236-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng.
2. Đối với những người trên, nay
được căn cứ tỷ lệ mất sức lao động ghi trong biên bản giám định y khoa gốc
(giám định lần đầu) lưu trong hồ sơ để chuyển xếp theo 3 hạng bệnh binh nói ở
Điều 3 phần I và được căn cứ vào mức lương cũ chuyển đổi sang mức lương mới ở
cùng thang bậc để tính lại trợ cấp bệnh binh theo mức trợ cấp nói ở Điều 1 phần
II.
Bệnh binh hưởng sinh hoạt phí được
lấy mức ấn định 250 đồng để tính lại trợ cấp.
IV. VIỆC GIÁM
ĐỊNH LẠI SỨC LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI BỆNH BINH
1. Hai năm một lần, bệnh binh được
giám định lại sức lao động tại Hội đồng Giám định y khoa.
Căn cứ vào kết luận của Hội đồng
Giám định y khoa, Giám đốc Sở Thương binh và xã hội sẽ quyết định việc ngừng hoặc
để tiếp tục hưởng trợ cấp bệnh binh. Nếu sau giám định lại, tỷ lệ mất sức lao động
chỉ còn ở mức 40% trở xuống thì thôi hưởng trợ cấp bệnh binh. Trong trường hợp
này, đối với bệnh binh hạng 2 khi rời quân đội chưa được nhận trợ cấp phục viên
thì khi thôi hưởng trợ cấp bệnh binh được nhận khoản trợ cấp phục viên nói tại
mục B dưới đây:
2. Những trường hợp được miễn việc
giám định lại sức lao động:
a. Những bệnh binh có tỷ lệ mất
sức lao động từ 81% trở lên.
b. Bệnh binh đồng thời là thương
binh có thương tật được xếp hạng từ hạng 3 trở lên.
c. Những bệnh binh nam đủ 50 tuổi
trở lên, nữ đủ 45 tuổi trở lên.
d. Sau 2 lần giám định, sức khoẻ
vẫn chưa hồi phục.
B. QUÂN
NHÂN PHỤC VIÊN
1. Chế độ trợ cấp đối với quân
nhân phục viên được quy định tại Điều 13 của Nghị định số 236-HĐBT thay thế cho
chế độ trợ cấp đối với quân nhân phục viên quy định tại Quyết định số 178-CP
ngày 20-7-1974 và Nghị định số 09-NĐ-76 của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng
hoà miền Nam Việt Nam ngày 18-6-1976.
Việc thực hiện chế độ đối với những
quân nhân phục viên từ ngày 1-9-1985 trở đi sẽ tiến hành theo hướng dẫn của Bộ
Quốc phòng.
2. Đối với quân nhân đã phục
viên trước đây còn đang hưởng trợ cấp hàng tháng, nay được hưởng như sau:
a. Được căn cứ vào mức lương cũ
khi phục viên chuyển đổi sang mức lương mới cùng thang bậc lương để tính trợ cấp
cho thời gian còn lại; quân nhân hưởng sinh hoạt phí thì được tính trợ cấp theo
mức ấn định 250đ00.
Thời gian phục vụ trong quân đội
cũng được tính theo hệ số như quy định đối với người về hưu.
b. Được tính lại trợ cấp như
sau: cứ mỗi năm của thời gian còn lại chưa được hưởng trợ cấp hàng tháng thì được
trợ cấp 1 tháng lương và các khoản phụ cấp (nếu có) và được nhận hết một lần.
c. Đối với quân nhân nhập ngũ
trước ngày 20-7-1954 đã phục viên, đang hưởng trợ cấp hàng tháng, nay được áp dụng
chế độ mới theo như hướng dẫn tại điểm a và b nói trên.
Trong số người trên, nếu ai đủ
điều kiện nghỉ hưu quy định tại Nghị định số 236-HĐBT, thì được chuyển sang hưởng
lương hưu do Giám đốc Sở Thương binh và xã hội ra quyết định. Những người được
chuyển sang hưởng lương hưu không hưởng khoản trợ cấp phục viên nói ở điểm b và
khoản trợ cấp một lần khi về hưu nói ở Điều 2, Mục B, Chương nói về lương hưu.
d. Những quân nhân đang hưởng chế
độ phục viên theo những điều kiện quy định tại Quyết định số 281-CP ngày
1-9-1980 của Hội đồng Chính phủ, nay cũng hưởng trợ cấp theo chế độ mới; được
coi như có đủ 5 năm phục vụ trong quân đội để tính lại trợ cấp theo như hướng dẫn
ở điểm b nói trên.
TRỢ CẤP ĐỐI VỚI CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC NGHỈ HƯU VÌ MẤT SỨC LAO ĐỘNG
A. ĐIỀU KIỆN
HƯỞNG TRỢ CẤP VÀ CHẾ ĐỘ TRỢ CẤP MẤT SỨC LAO ĐỘNG
I. ĐIỀU KIỆN
HƯỞNG TRỢ CẤP
Kể từ ngày 1-9-1985 trở đi, công
nhân, viên chức (bao gồm cả công nhân quốc phòng, công nhân ngành Công an) nghỉ
việc hưởng trợ cấp mất sức lao động phải có đủ điều kiện đã được quy định tại
Điều 14 của Nghị định; dưới đây nói cụ thể thêm như sau:
1. Nếu công nhân, viên chức về
nghỉ việc vì ốm đau hoặc vì tai nạn thì nhất thiết phải qua Hội đồng giám định
y khoa giám định sức lao động; Nếu về nghỉ việc do hết tuổi lao động (nam đủ 60
tuổi, nữ đủ 55 tuổi) thì không phải qua giám định.
2. Những công nhân, viên chức vì
ốm đau đã nghỉ việc trước ngày có chính sách bảo hiểm xã hội (thuộc diện thi
hành Thông tư số 11-NV ngày 20-9-1966 của Bộ Nội vụ, nay là Bộ Thương binh và
xã hội; và thuộc diện thi hành Nghị định số 10-NĐ-76 ngày 18-6-1976 của Chính
phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam), nếu có đủ 15 năm công tác
(tính theo hệ số) và được Hội đồng giám định y khoa xác nhận mất sức lao động từ
61% trở lên, thì nay cũng được hưởng chế độ trợ cấp mất sức lao động theo Điều
14 Nghị định số 236-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng.
II. TRỢ CẤP MẤT
SỨC LAO ĐỘNG HÀNG THÁNG
1. Những công nhân, viên chức có
đủ điều kiện để hưởng trợ cấp thì ngoài tiền trợ cấp hàng tháng tính theo quy định
ở Điều 14 của Nghị định, khi về nghỉ việc còn được trợ cấp một lần một khoản tiền
bằng 1 tháng lương và các khoản phụ cấp lương, phụ cấp đắt đỏ, phụ cấp khu vực
(nếu có).
2. Công nhân, viên chức về nghỉ việc
vì mất sức lao động là Anh hùng lực lượng vũ trang, Anh hùng lao động thì trợ cấp
hàng tháng được cộng thêm khoản phụ cấp ưu đãi tính bằng 5% tiền lương và phụ cấp
thâm niên (nếu có).
III. TRỢ CẤP
MỘT LẦN
Công nhân, viên chức vì mất sức
lao động hoặc hết tuổi lao động được nghỉ việc nhưng chưa có đủ 15 năm công tác
thì trợ cấp một lần theo quy định tại Điều 14 Nghị định 2 số 36-HĐBT của Hội đồng
Bộ trưởng và do quỹ bảo hiểm xã hội đài thọ. Về cách tính trợ cấp: cứ mỗi năm
công tác (tính theo hệ số) được trợ cấp bằng 1 tháng lương chính cộng với tất cả
các khoản phụ cấp đang hưởng (nếu có) phụ cấp đắt đỏ, phụ cấp khu vực (nếu có).
Trường hợp thời gian công tác có tháng lẻ, thì từ 1 đến 6 tháng tính thêm 1/2
tháng lương; có từ 7 tháng đến tròn 12 tháng tính thêm 1 tháng lương chính và
các khoản phụ cấp đang hưởng (nếu có).
B. CHẾ ĐỘ
GIÁM ĐỊNH LẠI SỨC LAO ĐỘNG VÀ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI ĐÃ HỒI PHỤC SỨC
LAO ĐỘNG
I. CHẾ ĐỘ
GIÁM ĐỊNH LẠI SỨC LAO ĐỘNG
Công nhân, viên chức nghỉ việc
vì mất sức lao động hưởng trợ cấp hàng tháng, còn trong độ tuổi lao động thì kể
từ ngày về nghỉ việc, cứ 2 năm giám định lại sức lao động 1 lần theo đúng quy định
ở Điều 15 của Nghị định. Chứng nhận của Hội đồng giám định y khoa về sức lao động
là cơ sở để cơ quan thương binh và xã hội xét trợ cấp tiếp hay thôi trợ cấp. Nếu
đến thời hạn mà người đang hưởng trợ cấp không đi giám định lại sức lao động,
cơ quan Thương binh và xã hội thông báo đến lần thứ 3 mà người đó vẫn không thực
hiện việc giám định mà không có lý do chính đáng thì không được nhận trợ cấp tiếp.
Riêng những người dưới đây thì
không yêu cầu giám định lại sức lao động:
a. Những người đã mất sức lao động
từ 81% trở lên.
b. Là thương binh hoặc hưởng
chính sách như thương binh từ hạng 3 trở lên.
c. Khi về nghỉ mất sức hoặc đến
thời hạn khám nhưng nam đã 50 tuổi, nữ đã 45 tuổi.
d. Những người đã qua giám định
2 lần mà sức lao động vẫn không hồi phục.
Trường hợp có yêu cầu của người
hưởng trợ cấp mất sức lao động hoặc có yêu cầu của chính quyền địa phương thì
Giám đốc Sở Thương binh và xã hội xem xét và quyết định.
II. CHÍNH
SÁCH ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI ĐÃ PHỤC HỒI SỨC LAO ĐỘNG
Những người được Hội đồng giám định
y khoa xác nhận đã phục hồi sức lao động (sức lao động giảm không quá 60%) thì
thôi trợ cấp hàng tháng như quy định ở Điều 16 của Nghị định và giải quyết như
sau:
1. Sở Thương binh và xã hội
thông báo cho cơ quan, xí nghiệp cũ biết để sắp xếp việc làm cho người đã phục
hồi sức lao động. Nếu cơ quan, xí nghiệp cũ không tiếp nhận lại làm việc và cơ
quan, xí nghiệp khác của Nhà nước cũng không tuyển dụng thì cơ quan, xí nghiệp
cũ quyết định trợ cấp thôi việc cho người đã phục hồi sức lao động bằng ngân
sách của mình. Trường hợp cơ quan, xí nghiệp cũ đã giải thể, thì cấp trên trực
tiếp của cơ quan, xí nghiệp đó có trách nhiệm giải quyết.
Về cách tính trợ cấp thôi việc:
lấy tổng số thời gian công tác của người công nhân, viên chức (tính theo hệ số)
trừ đi số năm, tháng đã nhận trợ cấp, còn lại bao nhiêu thời gian, thì cứ mỗi
năm còn lại, trợ cấp bằng 1 tháng tiền lương và các khoản phụ cấp khác (nếu có)
mà người đó đã hưởng trước khi về nghỉ việc, chuyển đổi sang mức lương mới cùng
thang bậc lương.
2. Những người đã hồi phục sức
lao động, được cơ quan, xí nghiệp cũ bố trí làm việc lại nhưng không nhận việc
thì không được hưởng khoản trợ cấp thôi việc nói trên.
C. ĐỐI VỚI
CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC ĐÃ VỀ NGHỈ VIỆC TRƯỚC NGÀY 1-9-1985
Công nhân, viên chức đã về nghỉ
việc vì mất sức lao động trước ngày 1-9-1985 và đến nay còn đang hưởng trợ cấp
hàng tháng thì giải quyết theo như quy định ở Điều 17 của Nghị định số
236-HĐBT; dưới đây hướng dẫn cụ thể:
1. Những người đã nói ở điểm a,
b, c, d trong phần I mục B trên đây không thuộc diện giám định lại sức lao động.
Những người trước đây về nghỉ không qua giám định, những người mà chính quyền
cơ sở (xã, phường, thị trấn) phát hiện là khoẻ mạnh và cả những người chưa có đủ
15 năm công tác mà không thuộc diện nói ở các điểm a, b, c, d, thì đều phải
giám định lại sức lao động để giải quyết theo đúng quy định tại Điều 15 và Điều
16 Nghị định số 236-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng.
2. Những người sau khi đã được
giám định lại sức lao động được xác nhận sức khoẻ không hồi phục và những người
không thuộc diện phải giám định lại, nếu có đủ thời gian công tác tính theo hệ
số đủ 30 năm (đối với nam) hoặc đủ 25 năm (đối với nữ) thì được chuyển sang hưởng
lương hưu kể từ ngày 1-9-1985.
3. Những trường hợp tuy chưa có
đủ 15 năm công tác nhưng thuộc diện sau đây thì Giám đốc Sở Thương binh và xã hội
có thể xem xét cho tiếp tục hưởng trợ cấp hàng tháng bằng 40% tiền lương và phụ
cấp thâm niên (nếu có) theo Nghị định số 236-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng:
a. Những người được tuyên dương
Anh hùng lực lượng vũ trang, hoặc Anh hùng lao động.
b. Thương binh và người hưởng
chính sách như thương binh có thương tật từ hạng 4 trở lên; Những người được xếp
hạng thương tật vì tai nạn lao động, vì bệnh nghề nghiệp từ hạng 3 trở lên.
c. Những người có xác nhận của Hội
đồng giám định y khoa đã mất sức lao động từ 81% trở lên, những người đã có đủ
10 năm công tác thực tế và tính đến ngày 1-9-1985 đã hết tuổi lao động (nam đủ
60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi).
d. Những người đã có 10 năm công
tác thực tế, trong đó có đủ 3 năm tham gia kháng chiến chống Pháp, hoặc có đủ 3
năm tham gia kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam; hoặc có đủ 5 năm công tác ở Căm-pu-chia,
ở Lào; hoặc có đủ 5 phục vụ trong lực lượng vũ trang; hoặc có đủ 5 năm làm các
nghề đặc biệt độc hại, nặng nhọc, hay làm việc ở vùng có nhiều khó khăn gian khổ.
đ. Những người trước đây đã được
Bộ Thương binh và xã hội xét cho hưởng lại trợ cấp mất sức hàng tháng.
TRỢ CẤP ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG
GIÚP ĐỠ CÁCH MẠNG
I. ĐỐI TƯỢNG
VÀ TIÊU CHUẨN ĐỂ ĐƯỢC TRỢ CẤP ƯU ĐÃI
1. Người có công giúp đỡ cách mạng
được trợ cấp ưu đãi nói ở Điều 18 và Điều 19 của Nghị định số 236-HĐBT là những
người dân đã được tặng thưởng kỷ niệm chương "Tổ quốc ghi công" kèm
theo bằng "Có công với nước", hoặc được tặng thưởng bằng "Có
công với nước", hoặc đã được tặng thưởng "Huân chương kháng chiến".
Những người trước có công giúp đỡ
cách mạng, sau đã trở thành cán bộ, công nhân, viên chức... thì không thuộc diện
hưởng trợ cấp ưu đãi.
2. Trong một gia đình có công
giúp đỡ cách mạng thì người đứng tên trong quyết định khen thưởng được trợ cấp
ưu đãi, còn những người khác cũng có tên trong hồ sơ khen thưởng thì được chăm
sóc và được giúp đỡ khi cần thiết.
3. Những người có công giúp đỡ
cách mạng được chăm sóc về mặt tinh thần, khi có khó khăn về sinh sống được đặc
biệt quan tâm giúp đỡ và khi hết tuổi lao động được nhận trợ cấp theo quy định
tại Nghị định số 236-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng.
II. MỨC TRỢ
CẤP ƯU ĐÃI
Những người đã được xác nhận có
công giúp đỡ cách mạng và có đủ điều kiện đã được hướng dẫn ở Điều I trên đây,
được trợ cấp ưu đãi theo mức quy định ở Điều 18 của Nghị định kể từ ngày
1-9-1985.
Nếu khi già yếu, mất sức lao động
mà gia đình không có điều kiện nuôi dưỡng thì được hưởng mức sinh hoạt phí nuôi
dưỡng thống nhất theo như quy định ở Điều 19 của Nghị định. Trường hợp nuôi dưỡng
ở cơ sở tập trung thì khoản sinh hoạt phí đó được chi về nuôi dưỡng bằng 70%,
còn 30% dành cho người hưởng trợ cấp chi tiêu vào việc riêng.
CHI PHÍ CHÔN CẤT VÀ TRỢ CẤP
VÌ MẤT NGƯỜI NUÔI DƯỠNG
I. CHI PHÍ
CHÔN CẤT
Theo iĐều 20 của Nghị định số
236-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, Bộ Thương binh và xã hội quy định cụ thể khoản
tiền chôn cất như sau:
1. Khoản tiền về chôn cất được
tính theo trị giá một số vật dụng và tiền chi phí sau đây: 1 áo quan bằng gỗ
nhóm 6, 10m vải niệm (vải mộc trắng), bia mộ (bằng đá cỡ 20cmx30cm), tiền phóng
ảnh cỡ 18x24cm, tiền thuê xe tang (nếu cần).
Theo tình hình giá cả của từng địa
phương, Sở Thương binh và xã hội đề nghị Uỷ ban nhân dân quy định khoản tiền cụ
thể, nhiều nhất không vượt số tiền ấn định chung cho cả nước là 1.200 đồng. Uỷ
ban nhân dân có thể quyết định tăng thêm khoản tiền này đối với những trường hợp
riêng biệt, và do ngân sách địa phương đài thọ.
2. Ngoài khoản tiền về chôn cất
nói trên, gia đình có công nhân, viên chức hoặc quân nhân chết được cấp thêm một
khoản tiền là 500 đồng để chi phí cho lễ tang theo yêu cầu riêng. Đối với những
trường hợp chết được một thời gian sau mới báo tử và giải quyết quyền lợi cho
gia đình, thì gia đình vẫn được hưởng khoản tiền này.
3. Những người nói dưới đây, khi
chết cũng có chế độ chi phí chôn cất như đối với công nhân, viên chức và quân
nhân còn tại chức chết:
- Những người chết được xác nhận
là liệt sĩ.
- Anh hùng lực lượng vũ trang,
Anh hùng lao động không thoát ly công tác.
- Công nhân, viên chức và quân
nhân đã về hưu, hoặc về nghỉ việc vì mất sức lao động đang hưởng trợ cấp hàng
tháng;
- Thương binh chết vì vết thương
cũ tái phát và thương binh hạng 1 và hạng 2 chết vì ốm đau, tai nạn.
- Bệnh binh hạng 1 và hạng 2.
- Công nhân, viên chức đã về nghỉ
việc do tai nạn lao động hoặc do bệnh nghề nghiệp, thương tật hạng 1 và hạng 2.
- Những người làm việc theo chế
độ hợp đồng chết do tai nạn lao động, hoặc dân quân tự vệ, quân nhân dự bị chết
trong khi làm nhiệm vụ quân sự nhưng không được xác nhận là liệt sĩ.
4. Chi phí về chôn cất đối với
cán bộ hoạt động cách mạng trước tháng 8-1945 không phải là cán bộ trong biên
chế cơ quan Nhà nước thực hiện theo chỉ thị riêng của Ban Tổ chức Trung ương.
II. TRỢ CẤP
VÌ MẤT NGƯỜI NUÔI DƯỠNG
Dưới đây hướng dẫn một số điểm cụ
thể về điều kiện và mức trợ cấp cho thân nhân khi công nhân, viên chức, và quân
nhân chết theo quy định tại Điều 21 và 22 Nghị định số 236-HĐBT:
1. Những người thuộc diện đã nói
ở điểm 3 mục I trên đây khi chết nếu có thân nhân đủ điều kiện đã được quy định
thì được hưởng trợ cấp theo quy định tại Điều 21 và Điều 22 của Nghị định.
2. Về khoản tiền trợ cấp theo
lương của người chết, nếu người chết đã hưởng chế độ tiền lương thì được lấy tiền
lương và các khoản phụ cấp (nếu có) làm cơ sở tính những tháng được hưởng
nguyên lương và mức trợ cấp 20% cho những tháng tiếp sau. Người chết thuộc diện
hưởng sinh hoạt phí hoặc những người không có lương thì cơ sở để tính trợ cấp
như sau:
- Nếu là quân nhân từ trần hoặc
được xác nhận là liệt sĩ thì lấy mức ấn định là 250 đồng.
- Nếu là quân nhân dự bị, tự vệ,
dân quân không phải là công nhân, viên chức chết trong khi làm nhiệm vụ quân sự;
hoặc người làm hợp đồng công nhật chết do tai nạn lao động thì lấy mức ấn định
là 220 đồng.
3. Những tháng mà thân nhân của
người chết được nhận khoản trợ cấp ngang mức 1 tháng lương, hoặc bằng 20% tháng
lương của người chết, theo quy định tại Điều 21 Nghị định số 236-HĐBT thay cho
khoản trợ cấp lần đầu và tiền tuất 1 lần theo các quy định trước đây.
4. Mức sinh hoạt phí cấp cho những
thân nhân của người chết được nuôi dưỡng ở các cơ sở của Nhà nước nếu là ở cơ sở
nuôi dưỡng tập trung thì 70% khoản sinh hoạt phí đó được chi về nuôi dưỡng, còn
30% dành cho người hưởng trợ cấp chi tiêu về các việc riêng.
5. Khi liệt sĩ hy sinh, vợ hoặc
cha mẹ liệt sĩ chưa đủ điều kiện hưởng tiền tuất hàng tháng, nhưng sau này khi
có đủ điều kiện thì những người trên cũng được hưởng tiền tuất hàng tháng.
Công nhân, viên chức và quân
nhân chết vì tai nạn lao động, chết vì ốm đau và tai nạn rủi ro, khi người đó
chết, trong những thân nhân chủ yếu không có ai đủ điều kiện hưởng tiền tuất,
thì trong khoảng thời gian ba năm từ lúc người đó chết, nếu có thâm niên nào đủ
điều kiện sẽ được xác nhận để hưởng tiền tuất.
III. VIỆC
TÍNH TRỢ CẤP ĐỐI VỚI THÂN NHÂN NHỮNG NGƯỜI CHẾT TRƯỚC KHI BAN HÀNH NGHỊ ĐỊNH
1. Những thân nhân liệt sĩ, thân
nhân của công nhân, viên chức và quân nhân từ trần hiện đang hưởng tuất tháng,
nếu xem lại vẫn có đủ điều kiện thì từ ngày 1-9-1985 trở đi được chuyển sang hưởng
trợ cấp hàng tháng theo Nghị định số 236-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng.
2. Đối với những trường hợp chết
từ trước ngày ban hành Nghị định số 236-HĐBT đến nay mới báo tử và giải quyết
quyền lợi cho gia đình, thì từ ngày 1-9-1985, gia đình được hưởng các khoản trợ
cấp quy định tại Điều 21 và Điều 22 của Nghị định số 236-HĐBT. Nếu có trường hợp
được lĩnh lại khoản tiền tuất hàng tháng trong thời gian trước ngày 1-9-1985,
thì khoản tiền này được tính theo chế độ trợ cấp áp dụng cho đến trước ngày Nghị
định số 236-HĐBT có hiệu lực.
IV. MỘT SỐ
QUY ĐỊNH CŨ VỀ THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ TRỢ CẤP TUẤT NAY CÒN HIỆU LỰC THỰC HIỆN
Một số quy định của Bộ Thương
binh và xã hội về các vấn đề thực hiện trợ cấp tuất nói dưới đây, còn phù hợp với
các quy định về chế độ trợ cấp vì mất người nuôi dưỡng ban hành tại Nghị định số
236-HĐBT, nên vẫn được tiếp tục thực hiện:
- Thông tư số 24-TBXH ngày
19-3-1984 thống nhất trợ cấp hàng tháng đối với thân nhân chủ yếu của các liệt
sĩ thuộc các thời kỳ cách mạng và đối với các loại đối tượng.
- Thông tư số 17-TBXH ngày
7-11-1983 về trợ cấp tiền tuất đối với thân nhân của nhiều liệt sĩ.
- Thông tư số 31-TBXH ngày
20-6-1984 về trợ cấp tiền tuất đối với thân nhân liệt sĩ là công nhân, viên chức
và quân nhân nghỉ hưu, nghỉ việc vì mất sức lao động hoặc là thương binh, bệnh
binh.
TRỢ CẤP XÃ HỘI VÀ TRỢ CẤP CỨU
TẾ
1. Trợ cấp xã hội được thực hiện
đối với những công dân có nhiều khó khăn trong cuộc sống (thường xuyên hay đột
xuất), nhằm hỗ trợ những điều kiện cần thiết với mức độ thích hợp, để những người
này có thể duy trì được cuộc sống bình thường hàng ngày, không quá xa cách với
mức sống của số đông nhân dân trong vùng.
Khi xem xét để giải quyết trợ cấp
xã hội phải dành ưu tiên đối với những người đã có cống hiến cho xã hội nay nghỉ
hưu, nghỉ việc với mức trợ cấp thấp và đối với thân nhân của họ khi những người
này gặp khó khăn.
Cũng cần quan tâm đến những hộ
dân có chồng, con đang phục vụ trong quân đội, đang làm nhiệm vụ ở tuyến một,
và những hộ dân có người thân là công nhân, viên chức có mức thu nhập thấp và
có điều kiện công tác khó khăn ít chăm lo được cho gia đình.
Những trẻ mồ côi, người già, người
tàn tật không nơi nương tựa; những người dân lao động, xã viên các tổ chức kinh
tế tập thể thu nhập thấp, gia đình nhiều miệng ăn, cuộc sống quá nghèo túng
cũng cần được Nhà nước và xã hội giúp đỡ.
2. Điều 25 của Nghị định quy định
mức sinh hoạt phí hàng tháng để nuôi dưỡng những người ở các cơ sở xã hội tập
trung là 110 đồng nhằm giải quyết những nhu cầu thông thường về ăn, mặc và một
ít trang bị sinh hoạt cá nhân. Trại cần tổ chức cho các trại viên trồng trọt,
chăn nuôi và làm thêm một số nghề thủ công thích hợp để có thêm thu nhập bổ
sung vào khẩu phần ăn.
Những chi phí về chăn màn, áo ấm
và về các đồ dùng dài hạn, chi phí cho việc tổ chức các sinh hoạt văn hoá, tinh
thần; chi phí về chữa bệnh tại đơn vị, về tổ chức cho các trẻ mồ côi nuôi trong
trại học chữ, học nghề... do trại giải quyết bằng kinh phí sự nghiệp và vận động
nhân dân, các đơn vị kinh tế tập thể, các tổ chức xã hội, các đoàn thể quần
chúng tham gia giúp đỡ.
3. Đối với những người có sức
lao động cần đưa vào quản lý tập trung để giáo dục lao động, mức sinh hoạt phí
110 đồng tháng trong 6 tháng, nhằm giải quyết những nhu cầu về ăn, mặc ban đầu.
Sau 6 tháng các cơ sở phải bảo đảm có thêm thu nhập đáng kể bằng lao động sản
xuất của các trại viên để bù đắp vào tiền sinh hoạt phí giảm dần theo từng
tháng, bảo đảm cho họ có mức ăn tương ứng với mức lao động bỏ ra (nhất là đối với
những người làm công việc nặng nhọc); mức giảm dần từng tháng do Giám đốc các
cơ sở quyết định tuỳ theo kết quả tổ chức lao động sản xuất, nhưng hết năm thứ
2 thì thôi cấp sinh hoạt phí nói trên.
Những chi phí ban đầu khi tập
trung đối tượng từ các nơi đưa đến trại (quần áo và các trang bị sinh hoạt cá
nhân cần thiết, những chi phí để khám, chữa bệnh và khôi phục sức khoẻ cho họ
v.v...) đơn vị làm kế hoạch để xin chi vào kinh phí sự nghiệp của trại.
Vốn đầu tư để tổ chức sản xuất
ban đầu và để làm vốn kinh doanh do Giám đốc các cơ sở lập kế hoạch báo cáo cấp
trên giải quyết một phần, còn một phần vay ở các cơ sở ngân hàng Nhà nước theo
các thể lệ hiện hành có ưu đãi.
4. Điều 26 của Nghị định quy định
mức sinh hoạt phí hàng tháng cho những người bệnh tâm thần, được nhận vào các
trại tâm thần, trẻ em suy dinh dưỡng, trẻ em bại liệt và cho những người dân được
nhận vào các Trung tâm phục hồi chức năng... nhất loạt là 110 đồng là nhằm giải
quyết những nhu cầu ăn, trang bị sinh hoạt thông thường.
Để đáp ứng những nhu cầu sinh hoạt
do tình trạng bệnh lý đặt ra thì đơn vị làm kế hoạch xin bổ sung bằng kinh phí
sự nghiệp và bằng chế độ giường điều trị, điều dưỡng.
Gia đình người bệnh có nghĩa vụ
đóng góp phần sinh hoạt phí 110 đồng này. Nếu thuộc các diện sau đây, tuỳ hoàn
cảnh từng người có thể được miễn, giảm:
- Thân nhân liệt sĩ, thân nhân
những cán bộ cách mạng có nhiều thành tích.
- Thân nhân của thương binh, của
quân nhân tại ngũ.
- Công nhân, viên chức Nhà nước
và thân nhân có mức thu nhập thấp.
- Xã viên các tổ chức kinh tế tập
thể có thu nhập thấp.
- Những người dân quá nghèo
túng.
Mức miễn, giảm đối với từng trường
hợp, ở các cơ sở trực thuộc Sở Thương binh và xã hội thì do Giám đốc Sở xem xét
quyết định theo một quy định được cấp trên duyệt; Nếu ở các đơn vị trực thuộc Bộ
thì do Giám đốc đơn vị xem xét quyết định theo một quy định của Bộ.
5. Điều 27 quy định mức cứu tế
hàng tháng đối với trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ, người già yếu, người tàn tật cô
đơn không nơi nương tựa thấp nhất cũng bảo đảm được một khẩu phần lương thực đủ
sống. Tuỳ theo tình hình địa phương, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, huyện, quận,
xã, phường xét cấp một lần hoặc hàng quý, hàng tháng. Mức cứu tế đó chỉ giải
quyết được một phần nhu cầu sinh sống rất hạn chế. Vì vậy phải dựa thêm vào sự
giúp đỡ của nhân dân, của các đơn vị kinh tế tập thể, các đoàn thể quần chúng ở
địa phương. Phòng Thương binh và xã hội huyện, quận và Uỷ ban nhân dân cấp xã,
phường cần có kế hoạch tổ chức, vận động phong trào quần chúng tham gia giải
quyết hỗ trợ cho những người gặp khó khăn về sinh sống để họ có thể sinh sống ổn
định tại cơ sở, không bỏ đi lang thang xin ăn.
6. Kinh phí để giải quyết các loại
trợ cấp xã hội, do ngân sách Nhà nước cấp tỉnh và cấp huyện đài thọ.
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
1. Điều 28 -
Nghị định số 236-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng quy định lương hưu và các khoản trợ
cấp hàng tháng được cộng thêm phụ cấp chênh lệch giá sinh hoạt theo vùng.
Các khoản trợ cấp hàng tháng nói
trên đây, là kể cả khoản sinh hoạt phí được quy định tại các Điều 19, 23, 25 và
26 của Nghị định; kể cả khoản phụ cấp ưu đãi hàng tháng đối với cán bộ hoạt động
cách mạng trước tháng 8-1945 và đối với Anh hùng lực lượng vũ trang, Anh hùng
lao động và khoản phụ cấp về người phục vụ.
2. Điều 29 -
Nghị định số 236-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng quy định phụ cấp khu vực nơi cư
trú được thực hiện đối với công nhân, viên chức, quân nhân hưởng lương hưu hoặc
trợ cấp nghỉ việc vì mất sức lao động (trợ cấp hàng tháng) và đối với thương
binh, bệnh binh - kể cả người hưởng chính sách như thương binh - hưởng trợ cấp
thương tật hoặc trợ cấp bệnh binh hàng tháng.
Việc tính phụ cấp chênh lệch giá
sinh hoạt theo vùng và phụ cấp khu vực nơi cư trú thực hiện theo hướng dẫn của
Bộ Lao động.
3. Căn cứ vào
yêu cầu và khả năng của địa phương, vào trách nhiệm và quyền hạn, các cấp quyết
định những nội dung và biện pháp để thực hiện tốt chính sách và chăm sóc chu
đáo đời sống của những người hưởng chính sách thương binh và xã hội.
MỘT SỐ ĐIỂM VỀ TỔ CHỨC THỰC
HIỆN NGHỊ ĐỊNH SỐ 236-HĐBT
Thi hành Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá V) về giá - lương - tiền, Nghị định số
236-HĐBT ngày 18-9-1985 của Hội đồng Bộ trưởng là một chính sách lớn của Đảng,
nhất là đối với người có công, thể hiện sự quan tâm và cố gắng lớn của Nhà nước
trong tình hình hiện nay về chăm sóc ổn định và cải thiện một bước đời sống của
những người hưởng chính sách thương binh và xã hội.
Vì vậy, cơ quan Thương binh và
xã hội các cấp cần làm tốt vai trò tham mưu cho lãnh đạo địa phương trong tổ chức
thực hiện chính sách mới một cách khẩn trương, đúng quy định, bảo đảm đầy đủ chế
độ của người hưởng chính sách.
Để đạt được yêu cầu đó, cần chú
ý mấy điểm sau đây:
1. Làm tốt công tác chuẩn bị về
mọi mặt, nhất là về bồi dưỡng cán bộ và tổ chức lề lối làm việc, có kế hoạch,
chương trình hành động khoa học và đồng bộ. Tận dụng được nhiều nhất hiệu quả của
công tác quản lý hồ sơ vào việc thực hiện chính sách mới; cải tiến một bước
quan trọng về thủ tục thi hành chính sách, giảm cao nhất việc gây phiền hà cho
người được hưởng, đồng thời không sơ hở để bị lợi dụng.
2. Tổ chức thực hiện khẩn
trương, làm đến đâu chắc đến đó, bảo đảm không sai sót, phải sửa chữa về sau.
Phấn đấu không để xảy ra gián đoạn về trả trợ cấp, làm ảnh hưởng đến đời sống
người được hưởng, khi chính sách cũ đã hết hiệu lực và chính sách mới chưa làm
xong. Nêu cao tinh thần tận tuỵ trong công tác với ý thức trách nhiệm và thái độ
phục vụ cao, tạo mọi điều kiện để người hưởng chính sách thực hiện được quyền
làm chủ đối với quyền lợi được hưởng, hiểu được quyền lợi có ý nghĩa thế nào, gồm
những gì, là bao nhiêu.
3. Nêu cao ý thức tổ chức và kỷ
luật trong quá trình thực hiện chính sách mới, gặp khó khăn, vướng mắc gì, cần
nghiêm túc kịp thời xin ý kiến của Bộ; trong điều kiện cho phép, được thực hiện
theo sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân, nhất thiết không giải quyết việc gì ngoài
khuôn khổ quy định của chính sách, chế độ.
4. Tiếp tục tổ chức và phát huy
tốt các phong trào chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của những người hưởng
chính sách thương binh và xã hội theo hướng Nhà nước, nhân dân và đối tượng
cùng làm; quan tâm đến tất cả các thành viên hưởng chính sách ở tất cả các khu
vực, trong đó chú ý người có công, chú ý khu vực có chiến sự và các địa bàn
thành phố, thị xã; khai thác hết khả năng của bốn nguồn vật chất (Trung ương, địa
phương, nhân dân và sự giúp đỡ quốc tế) để hỗ trợ cho chế độ, chính sách của
Nhà nước; chú trọng tạo điều kiện phát huy khả năng tự lực của người hưởng
chính sách thông qua kết quả lao động sản xuất của bản thân.
5. Tổ chức tốt mối quan hệ với
các ngành, các đoàn thể cùng thực hiện chính sách thương binh và xã hội dưới sự
chỉ đạo trực tiếp của Uỷ ban nhân dân các cấp, có phân công, phối hợp chặt chẽ,
huy động được sức mạnh tổng hợp ở tất cả các cấp, các địa bàn, từ cơ sở trở
lên.
Quan tâm chống các hiện tượng lợi
dụng, giả danh để hưởng chính sách một cách không chính đáng; chống các hiện tượng
tham ô, lãng phí trong khi thi hành chính sách.
PHỤ LỤC
(Đính kèm thông tư số 48-TBXH ngày 30-9-1985)
I. PHỤ
LỤC SỐ 1
MỨC TRỢ CẤP THƯƠNG TẬT HÀNG THÁNG CỦA THƯƠNG BINH
THUỘC DIỆN HƯỞNG SINH HOẠT PHÍ TÍNH TRÊN MỨC ẤN ĐỊNH 250 ĐỒNG
Hạng
thương tật
|
Thương
binh loại A
|
Thương
binh loại B
|
|
Khi
về gia đình
|
Khi
đang công tác hoặc khi về hưu
|
Khi
về gia đình
|
Khi
đang công tác hoặc khi về hưu
|
|
|
|
|
|
Hạng 1
|
250
đồng
|
75
đồng
|
200
đồng
|
60
đồng
|
Hạng 2
|
175
-
|
52,50
|
137,50
|
41,25
|
Hạng 3
|
125
-
|
37,50
|
87,50
|
26,25
|
Hạng 4
|
50
-
|
15,00
|
37,50
|
11,25
|
II. PHỤ LỤC SỐ 2
MỨC TRỢ CẤP MỘT LẦN ĐỐI VỚI NHỮNG TRƯỜNG HỢP BỊ
THƯƠNG NHẸ
Tỷ
lệ mất sức lao động do thương tật
|
Mức
trợ cấp một lần
|
|
Loại
A
|
Loại
B
|
Từ 5% đến 10%
|
1 tháng lương
|
1 tháng lương
|
Từ 11% - 15%
|
2 tháng lương
|
1 tháng rưỡi lương
|
Từ 16% - 20%
|
3 tháng lương
|
2 tháng lương
|
III. PHỤ
LỤC SỐ 3
VỀ CHUYỂN ĐỔI CHỨC VỤ KHI BỊ THƯƠNG CỦA THƯƠNG BINH
CHỐNG PHÁP SANG CẤP QUÂN HÀM TƯƠNG ỨNG HIỆN NAY ĐỂ LẤY MỨC LƯƠNG TÍNH LẠI TRỢ CẤP
THƯƠNG TẬT
Vận dụng theo Điều I Nghị định số
306-TTg ngày 20-6-1958 của Thủ tướng Chính phủ. Cụ thể như sau:
- Trung đội trưởng, chính trị
viên trung đội chuyển đổi theo mức lương cấp thiếu uý.
- Đại đội phó, chính trị viên
phó đại đội chuyển đổi theo mức lương cấp trung uý.
- Đại đội trưởng, chính trị viên
đại đội chuyển đổi theo mức lương cấp thượng uý.
- Tiểu đoàn phó, chính trị viên
phó tiểu đoàn chuyển đổi theo mức lương cấp đại uý.
- Tiểu đoàn trưởng, chính trị
viên tiểu đoàn chuyển đổi theo mức lương cấp thiếu tá.
- Trung đoàn phó, phó chính uỷ
trung đoàn chuyển đổi theo mức lương cấp trung tá.
- Trung đoàn trưởng, chính uỷ
trung đoàn chuyển đổi theo mức lương cấp đại tá mức 2 (thượng tá cũ).
- Sư đoàn phó, phó chính uỷ sư
đoàn chuyển đổi theo mức lương cấp đại tá mức I.
- Sư đoàn trưởng, chính uỷ sư
đoàn chuyển đổi theo mức lương cấp thiếu tướng.
Đối với những trường hợp mà chức
vụ không thuộc diện nói trên, thì phải được thủ trưởng có thẩm quyền của đơn vị
khi bị thương hoặc cấp quân đội có thẩm quyền xác nhận việc chuyển cấp quân hàm
tương đương.
IV. PHỤ
LỤC SỐ 4
MỨC TRỢ CẤP HÀNG THÁNG ĐỐI VỚI BỆNH BINH
Hạng
bệnh binh
|
Mức
trợ cấp hàng tháng
|
|
Bệnh
binh thuộc diện hưởng lương
|
Bệnh
binh thuộc diện hưởng sinh hoạt phí
|
Hạng 1
|
80% tiền lương
|
200 đồng
|
Hạng 2
|
55% tiền lương
|
137,50
|
Hạng 3
|
35% tiền lương
|
87,50
|