UỶ
BAN NHÂN DÂN
TỈNH NGHỆ AN
--------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------
|
Số:
3946/QĐ-UBND
|
Nghệ
An, ngày 26 tháng 9 năm 2011
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC BAN HÀNH CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU GIẢM NGHÈO TỈNH NGHỆ
AN GIAI ĐOẠN 2011 - 2015
UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN
Căn cứ Luật
Tổ chức HĐND và UBND ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Căn cứ Nghị quyết
số 80/NQ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2011 của Chính phủ về định hướng giảm nghèo bền
vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020;
Xét đề nghị
của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tại Tờ trình số 1405/TTr-LĐTBXH ngày 19
tháng 9 năm 2011,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Chương
trình mục tiêu giảm nghèo tỉnh Nghệ An, giai đoạn 2011 - 2015.
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ
ngày ký.
Điều 3. Chánh Văn phòng UBND tỉnh, Giám đốc các Sở: Lao động - Thương binh và
Xã hội, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Chủ tịch UBND các huyện, thành phố, thị
xã, Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết
định này./.
Nơi nhận:
- Như điều 3;
- Bộ Lao động-TB&XH (b/c);
- Thường trực Tỉnh uỷ (b/c);
- Thương trực HĐND tỉnh (b/c);
- Chủ tịch, các PCT UBND tỉnh;
- Các PVP UBND tỉnh;
- Trung tâm Công báo tỉnh;
- CV: VX, TM, NN, CN, ĐT, TH;
- Lưu: VT.
|
TM. ỦY BAN NHÂN DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Lê Xuân Đại
|
CHƯƠNG TRÌNH
MỤC TIÊU GIẢM NGHÈO TỈNH NGHỆ AN GIAI ĐOẠN 2011 - 2015
(Ban hành kèm theo Quyết định số 3946/QĐ-UBND ngày 26/9/2011 của Uỷ ban
nhân dân tỉnh Nghệ An
Phần thứ
nhất
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC
HIỆN CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU GIẢM NGHÈO GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
I. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH KINH TẾ
- XÃ HỘI CỦA TỈNH TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG TÁC GIẢM NGHÈO.
- Mặc dù chịu tác động của nhiều
yếu tố khách quan và chủ quan không thuận lợi, song tốc độ tăng trưởng GDP bình
quân của tỉnh trong giai đoạn 2006 - 2010 đạt 9,7%, thu nhập bình quân năm 2010
đạt 14,16 triệu đồng/người, tăng hơn 2,5 lần so với năm 2006, tạo điều kiện về
nguồn lực cho thực hiện chương trình.
- Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch theo hướng tích cực. Tỷ trọng giá
trị nông nghiệp giảm từ 34,4% đầu năm 2006 xuống 28,5%; công nghiệp - xây dựng
tăng từ 29,30% lên 33,5%; dịch vụ từ 36,29% lên 38,1% năm 2010.
- Nguồn lao động tăng cả về số lượng và chất lượng, kết quả giải quyết
việc làm đạt khá, hàng năm toàn tỉnh tạo việc làm cho từ 3,2 -3,5 vạn lao động;
tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề tăng từ 16,5% năm 2006 lên 33% năm 2010.
- Công tác đảm bảo an sinh xã hội
được chăm lo thường xuyên và có nhiều chuyển biến tích cực; đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện.
Tuy nhiên vẫn còn một số khó khăn
như: Nghệ An đang là một tỉnh nghèo, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng
với tiềm năng và cơ hội phát triển của tỉnh. Địa bàn rộng, đời sống nhân dân
còn thấp, nhất là ở khu vực nông thôn, vùng miền núi. Thu nhập bình quân đầu
người của tỉnh mới bằng 70% mức bình quân chung cả nước.
II. HOẠT ĐỘNG CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN:
1. Công tác tuyên truyền,
nâng cao nhận thức về công tác XĐGN:
- Đẩy mạnh tuyên truyền
nâng cao nhận thức cho cán bộ, nhân dân, nhất là người nghèo thấy được xóa đói
giảm nghèo là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta.
- Thông qua công tác tuyên truyền đã nâng cao hơn vai trò, trách nhiệm của
các cấp, các ngành, tạo được sự đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân và trở
thành phong trào toàn dân trong công tác xoá đói giảm nghèo.
- Các cơ quan quản lý nhà nước,
thông tấn, báo chí và truyền hình bằng nhiều hình thức khác nhau đã tiến hành
phổ biến được những kinh nghiệm hay, cách làm tốt và những mô hình xóa đói giảm
nghèo có hiệu quả. Cụ thể, trong thời gian qua đã tổ chức được 7 cuộc đối thoại
trực tiếp, đăng tải 214 bài viết, phát 12 phóng sự chuyên đề giảm nghèo. Các cơ
quan như: Nội vụ, Ban Dân tộc, Nông nghiệp và PTNT, Lao động - TB&XH, Hội
Nông dân, Hội phụ nữ… đã phát hành các tài liệu thông tin “Cẩm nang xóa đói giảm
nghèo, Tài liệu tập huấn” và tổ chức nhiều hội nghị tập huấn cho hàng chục ngàn
hộ nghèo và cán bộ chủ chốt cơ sở.
2. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo,
tổ chức thực hiện:
- Tỉnh uỷ, HĐND tỉnh xác định
xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ chính trị quan trọng gắn với chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh, từ đó đã ban hành các Nghị quyết, kế hoạch, quyết định
để triển khai thực hiện. Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XVI xác định mục
tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh đến năm 2010 còn dưới 12%, Hội đồng nhân dân
tỉnh đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về công tác giảm nghèo;
- Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ban
hành nhiều cơ chế, chính sách về xoá đói giảm nghèo, huy động được nhiều nguồn
lực cho chương trình như: Chính sách hỗ trợ hộ ngèo đi xuất khẩu lao động,
Chính sách hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 42 xã có tỷ lệ hộ nghèo
từ 30% trở lên ngoài Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP, Chính sách đào tạo, dạy nghề
cho đối tương người có công, người tàn tật, người bị thu hồi đất sản xuất nông
nghiệp…
- Việc chỉ đạo thực hiện được thống
nhất từ tỉnh tới cơ sở; Ban chỉ đạo được củng cố, sáp nhập tập trung chỉ đạo
tích cực các nội dung, chính sách giảm nghèo của Chính phủ như: Chương trình mục
tiêu quốc gia về giảm nghèo theo Quyết định số 20/2007/QĐ-TTg, Chính sách hỗ trợ
đất sản xuất, đất ở, nhà ở, nước sinh hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu số theo
Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg, Chương trình 135 - giai đoạn II theo Quyết định
số 07/200/QĐ-TTg; Chính sách hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo Quyết định số
167/2008/QĐ-TTg và Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62
huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP. Từ đó đã tạo được sự thống nhất
trong việc lồng ghép các chính sách giảm xoá đói giảm nghèo đạt hiệu quả.
- Hàng năm tỉnh đã giao chỉ tiêu
kế hoạch giảm nghèo cho các địa phương, trên cơ sở đó các huyện, thành phố, thị
xã đã có Nghị quyết chuyên đề của cấp ủy, xây dựng chương trình, kế hoạch giải
pháp giảm nghèo và phân công tổ chức thực hiện.
- Công tác kiểm tra, giám sát, tổ
chức sơ, tổng kết rút kinh nghiệm trong chỉ đạo, điều hành được quan tâm thực
hiện thường xuyên, những vướng mắc, sai sót đã đề ra được các giải pháp khắc phục
kịp thời.
3. Huy động được sự tập trung
chỉ đạo của các tổ chức chính trị xã hội vào công cuộc xoá đói giảm nghèo:
Với sự đồng thuận và vào cuộc
quyết liệt của các cấp, các ngành, xoá đói giảm nghèo còn huy động được sức mạnh
của cả hệ thống chính trị xã hội trên địa bàn, đó là: Uỷ ban Mặt trận tổ quốc,
Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên… đã đưa công tác chỉ đạo thực hiện giảm
nghèo thành nhiệm vụ chính trị của mình.
Bằng các hoạt động phù hợp với
từng tổ chức, công tác XĐGN được diễn ra rộng khắp, với nhiều hình thức đa dạng,
phong phú như: vận động “Quỹ vì người nghèo”, “Ngày vì người nghèo”, xây dựng
“Nhà đại đoàn kết”, xây dựng “Quỹ tín dụng vay vốn hội viên nghèo”, phân công
trách nhiệm cho hội viên của các tổ chức giúp đỡ các hộ nghèo thoát nghèo,...
- Trong 5 năm, Uỷ ban Mật trận Tổ quốc tỉnh đã huy động gần 82 tỷ đồng
Quỹ vì người nghèo, hàng ngàn ngày công từ sự đóng góp, giúp đỡ của anh em, gia
đình, dòng tộc xây dựng 8.100 ngôi nhà “Đại đoàn kết” và hàng chục tỷ đồng từ
các chương trình, dự án nhân đạo, sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân và các
nhà hảo tâm… hỗ trợ cho các hộ nghèo về giống cây, con giúp phát triển sản xuất,
hỗ trợ chữa bệnh, giúp học sinh nghèo vượt khó v.v...
- Hội phụ nữ đã huy động được
25 tỷ đồng vào “Quỹ tiết kiệm vì phụ nữ nghèo” cho các chị em nghèo vay đầu tư
phát triển sản xuất, không thu lãi; phân công các hội viên khá và giàu giúp đỡ,
hướng dẫn các chị em nghèo trong trồng trọt, chăn nuôi, làm nghề phụ để tăng
thu nhập…
- Bên cạnh đó, các tổ chức
chính trị xã hội đã tham gia, phối hợp quản lý tốt việc cho vay và sử dụng có
hiệu quả nguồn vốn vay ủy thác từ Dự án tín dụng ưu đãi hộ nghèo. Hội Phụ nữ được
ủy thác với nguồn vốn trên 572 tỷ đồng, cho gần 50.000 hội viên nghèo vay, Hội
Nông dân tỉnh trên 523 tỷ đồng, xấp xỉ 46.000 hội viên nghèo được vay, Hội Cựu
chiến binh tỉnh gần 258 tỷ đồng, cho vay đến 22.400 hội viên, Đoàn thanh niên
trên 115 tỷ đồng, cho 9.981 đoàn viên nghèo.
Có thể nói rằng, Chương trình
giảm nghèo của tỉnh trong thời gian qua có sự đóng góp rất tích cực, có hiệu quả,
sự phối hợp chặt chẽ của các tổ chức chính trị xã hội các cấp.
III. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CỤ THỂ
1. Về tín dụng ưu đãi hộ
nghèo phát triển sản xuất.
- Trong 5 năm (2006 - 2010),
đã thực hiện cho hơn 220.000 lượt hộ nghèo được vay vốn, với doanh số cho vay đạt
2.066 tỷ đồng, mức vay bình quân được nâng dần từ 6,05 triệu đồng/ hộ năm 2006
lên 14,3 triệu đồng/hộ năm 2010. Tất cả các hộ nghèo có nhu cầu vay vốn để phát
triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đủ điều kiện đều được vay; thủ tục,
phương thức cho vay đối với hộ nghèo đã tuân thủ đúng theo quy định, đảm bảo
tính công khai, minh bạch, bình đẳng, thủ tục hành chính đơn giản, chặt chẽ.
- Ngoài ra, Ngân hàng Chính
sách xã hội đã cho 251.000 lượt học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn vay với
số vốn 1.784 tỷ đồng phục vụ cho việc học tập theo Quyết định số 157/QĐ-TTg,
cho 3.690 lượt hộ đồng bào dân tộc thiểu số ĐBKK vay theo Quyết định số
32/QĐ-TTg với doanh số 15,2 tỷ đồng, lãi suất 0%; xấp xỉ 25.000 lượt hộ vùng
khó khăn vay vốn SXKD với doanh số 429 tỷ đồng v.v...
Việc thực hiện có hiệu quả Dự
án tín dụng ưu đãi đã tạo điều kiện về vốn cho hộ nghèo phát triển sản xuất,
kinh doanh, tạo thu nhập, vươn lên thoát nghèo, ổn định cuộc sống, góp phần giảm
số lượng hộ nghèo chung của toàn tỉnh.
2. Về xây dựng cơ sở hạ tầng
xã nghèo.
- Trong 5 năm,
Chương trình 135 giai đoạn II đã đầu tư với số vốn hơn 424 tỷ đồng để xây dựng
cơ sở hạ tầng cho các xã, trung tâm cụm xã và thôn bản đặc biệt khó khăn vùng
miền núi, vùng sâu, vùng xa. Kết quả đã đầu tư xây dựng được 758 công trình hạ
tầng thiết yếu; bao gồm: 236 km đường giao thông, 21 cầu cống giao thông, 64 km
kênh, mương, 51đập, 47 hệ thống thuỷ lợi, 110 km đường dây điện, 27 trạm biến
áp, 600 phòng học kiên cố, 24 trạm y tế, 185 nhà sinh hoạt cộng đồng và 65 công
trình cấp nước sinh hoạt.
- Dự án xây dựng cơ sở hạ tầng xã nghèo vùng bãi ngang ven biển theo Quyết
định số 257/QĐ-TTg thuộc chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo đã đầu tư
29.600 triệu đồng, triển khai xây dựng được 39 công trình hạ tầng tại 8 xã thuộc
4 huyện Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc và Thị xã Cửa Lò.
- Ngoài ra, giai đoạn 2006 -
2008 các địa phương trên địa bàn tỉnh còn được thụ hưởng dự án Hạ tầng cơ sở
nông thôn dựa vào cộng đồng tổ chức thực hiện tại 113 xã, trong đó gồm 24 xã
biên giới, 97 xã miền núi và 11 xã bãi ngang ven biển thuộc 13 huyện với số
kinh phí thực hiện hơn 92 tỷ đồng, đầu tư xây dựng được 140 công trình hạ tầng
cơ sở phục vụ sản xuất và dân sinh, góp phần thúc đẩy thực hiện giảm nghèo bền
vững tại các địa bàn xã nghèo, vùng nghèo. Bên cạnh đó, Chương trình giảm nghèo
còn nhận được sự viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ nước ngoài như: CIDA và
CHF Canada, tổ chức CRS Mỹ, Oxfam Hồng Kông, GTV Italia, PYD Tây Ban Nha với
các khoản viện trợ lên đến hàng triệu USD, nhằm hỗ trợ phát triển sinh kế bền vững,
bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, cải thiện điều kiện và vệ sinh môi trường,
góp phần xoá đói giảm nghèo.
Có thể nói rằng với sự quan tâm, ưu tiên tập trung đầu tư nguồn lực, các
công trình hạ tầng cơ sở như trường học, trạm y tế, giao thông, điện,... của
các xã nghèo, vùng nghèo đã được cải thiện đáng kể, như: tỷ lệ phòng học kiên cố
và bán kiên cố đạt 63,9%, 75% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế, hơn 99% số xã
có đường giao thông vào trung tâm xã, 100% xã dùng điện, tỷ lệ hộ dân xem truyền
hình đạt 95%... đã tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế
xã hội, thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển ở các vùng nghèo.
3. Về đào tạo nghề và tập
huấn cho cán bộ cơ sở.
- Với sự quan tâm, chỉ đạo của
Tỉnh ủy, UBND tỉnh, mạng lưới cơ sở dạy nghề trên địa bàn đã có bước phát triển
mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng, đến nay toàn tỉnh có 62 cơ sở đào tạo
nghề. Giai đoạn 2006-2010 đã tổ chức dạy nghề cho 138.426 lao động nông thôn và
các đối tượng đặc thù; nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề toàn tỉnh từ 16,5%
đầu năm 2006 lên 33% năm 2010. Việc dạy nghề cho lao động nói chung và lao động
nghèo nói riêng đã thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho họ tham gia vào thị trường
lao động, để tìm và tự tạo được việc làm; gần 57% số lao động nghèo sau khi học
xong đã có việc làm mới với mức thu nhập bình quân 1,2 triệu đồng/người/tháng,
góp phần thoát nghèo.
- Công tác khuyến nông, lâm,
ngư được quan tâm. Trong 5 năm đã tổ chức 164 lớp tập huấn, hội nghị đầu bờ hướng
dẫn kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, hướng dẫn cách làm ăn… với 11.950 lượt người
nghèo tham gia, triển khai xây dựng 35 mô hình trình diễn, chuyển giao kỹ thuật
tại các địa phương. Kinh phí thực hiện là 6.600 triệu đồng.
- Đã tổ chức được 260 lớp tập
huấn nâng cao năng lực cho đội ngũ làm công tác giảm nghèo các cấp, với 23.309
lượt cán bộ tham gia; trong đó 95% là cán bộ cấp xã và xóm, bản. Việc tổ chức tập
huấn cho đội ngũ cán bộ cơ sở đã được tiến hành theo cụm, giảm bớt việc đi lại,
tiết kiệm kinh phí. Nội dung tập huấn phong phú, tập trung vào hướng dẫn cách
thức vận hành, tổ chức thực hiện kế hoạch giảm nghèo của các xã, phường; phổ biến,
trao đổi rút kinh nghiệm những mô hình, hộ gia đình giảm nghèo có hiệu quả để
áp dụng, nhân diện rộng.
- Thực hiện Nghị quyết số
06-NQ/TU ngày 08/8/2001 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, xây dựng làng nghề. Trong 5 năm đã phát triển thêm được
253 làng nghề và làng có nghề. Đưa tổng số làng nghề năm 2010 đạt 102 làng và
318 làng có nghề. Số lao động được chuyển đổi ngành nghề giai đoạn 2006 - 2010
từ 3 - 4 vạn người. Thông qua đó đã tạo thêm việc làm và thu nhập ổn định cuộc
sống lao động. Nhiều mô hình làng nghề, làng có nghề đã được nhân diện rộng và
bước đầu đã được người nghèo áp dụng có kết quả.
4. Kết quả thực hiện các
chính sách an sinh xã hội.
- Trong giai đoạn 2006 - 2010,
toàn tỉnh đã thực hiện hỗ trợ sữa chữa và xây dựng mới được 36.421 nhà ở cho hộ
nghèo với số kinh phí thực hiện trên 497 tỷ đồng; trong đó: Ngân sách nhà nước
cấp 233 tỷ đồng, vay vốn ngân hàng 183 tỷ đồng, huy động cộng đồng, dòng họ và
nguồn tự có của hộ nghèo trên 81 tỷ đồng.
- Chương trình nước sinh hoạt
cho đồng bào dân tộc thiểu số đã xây dựng 40 công trình cấp nước cộng đồng tại
10 huyện miền núi, kinh phí thực hiện 68,7 tỷ đồng, 17.200 hộ nghèo dân tộc thiểu
số được trực tiếp thụ hưởng. Ngoài ra, từ chương trình nước sạch, vệ sinh môi
trường nông thôn đã được Ngân hàng cho vay vốn với doanh số trên 200 tỷ đồng, với
36.500 hộ vay để tự tạo nguồn nước sinh hoạt.
- Đảm bảo 100% hộ nghèo được cấp
phát thẻ bảo hiểm y tế. Trong 5 năm, đã thực hiện mua và cấp phát hơn 3,55 triệu
lượt thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, kinh phí thực hiện trên 700 tỷ đồng.
- Đã hỗ trợ miễn, giảm học
phí, các khoản đóng góp cho 261.220 lượt học sinh nghèo; hỗ trợ 240.504 lượt học
sinh các dụng cụ học tập, vở viết và sách giáo khoa. Kinh phí thực hiện 35,8 tỷ
đồng.
- Đã có 9.584 lượt người nghèo
được trợ giúp pháp lý miễn phí, qua các hình thức tư vấn pháp luật, tham gia tố
tụng, đại diện ngoài tố tụng, hoà giải và các hình thức trợ giúp pháp lý khác
giúp người nghèo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết
pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật... kinh phí thực hiện 1,3 tỷ
đồng.
- Hơn 90.000 đối tượng chính sách người có công đã được chăm lo về đời sống
vật chất tinh thần. Hàng năm tỉnh đã quan tâm thực hiện trợ cấp thường xuyên tại
cộng đồng cho 90.333 đối tượng xã hội theo Nghị định số 67/NĐ-CP và Nghị định số
13/NĐ-CP của Chính phủ, bao gồm: trẻ mồ côi không nơi nương tựa, người tàn tật,
cô đơn, tâm thần, người cao tuổi… Đồng thời, thực hiện cấp hàng nghìn tấn lương
thực và hàng chục tỷ đồng để cứu trợ đột xuất cho đối tượng thiếu đói, gia đình
gặp hoạn nạn do thiên tai, bão lụt...
Tóm lại: Thời gian qua các
chính sách đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh đã được các ngành chức năng,
các địa phương quan tâm chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, kịp thời; hộ nghèo, những
người yếu thế đã được trợ giúp nhiều mặt, vượt qua khó khăn trong đời sống, từng
bước hòa nhập cộng đồng; nâng cao niềm tin của nhân dân đối với các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước.
5. Kết quả thực hiện Nghị
quyết 30a của Chính phủ
Sau hơn 02 năm triển khai thực
hiện Nghị quyết 30a của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền
vững đối với 3 huyện nghèo của tỉnh là Kỳ Sơn, Tương Dương và Quế Phong, với tổng
nguồn vốn huy động được trên 835 tỷ đồng; bao gồm: Ngân sách nhà nước hỗ trợ,
Ngân hàng Chính sách Xã hội cho vay, hỗ trợ của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh và
các doanh nghiệp. Kết quả:
- Hỗ trợ xây dựng được 7.208
ngôi nhà cho hộ nghèo, đạt trên 98% nhu cầu khó khăn về nhà ở của hộ nghèo, xây
dựng được 35 công trình hạ tầng cơ sở, bao gồm: Đường giao thông, các công
trình thuỷ lợi, nước sinh hoạt, điện, trạm y tế xã, trường học, cầu, cống.
- Cấp gần 1.000 tấn gạo hỗ trợ
cho 2.694 hộ nghèo với 15.043 nhân khẩu ở thôn, bản khu vực giáp biên giới thiếu
lương thực.
- Thu hút 162 trí thức trẻ về
làm việc tại các xã hưởng chính sách theo Quyết định số 70/2010/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ.
- Đưa hơn 100 lao động đi xuất
khẩu lao động theo Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
- Thực hiện cho vay vốn tín dụng
ưu đãi đối với 49.095 lượt hộ nghèo. Bố trí trên 34,5 tỷ đồng để thực hiện các
chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, nông lâm nghiệp như: hỗ trợ mua giống
gia súc, làm chuồng trại, hỗ trợ khai hoang, phục hoá đất sản xuất, bảo vệ rừng
ngoài dự án 661, vắc xin tiêm phòng gia súc.
- Tốc độ giảm nghèo của các huyện
nghèo nhanh hơn so với trước thời điểm Nghị quyết 30a ban hành, hàng năm giảm tỷ
lệ hộ nghèo từ 4 - 5%/năm (trước đây chỉ từ 2,5 - 3%/năm).
IV. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Ưu điểm:
- Công tác giảm nghèo đã trở
thành một phong trào sâu rộng, được sự tham gia tích cực của người dân và huy động
được sức mạnh của cả hệ thống chính trị xã hội trên địa bàn góp phần thực hiện
thành công mục tiêu giảm nghèo của tỉnh.
- Việc tổ chức thực hiện
Chương trình giảm nghèo đã đạt hiệu quả cao, bình quân mỗi năm giảm xấp xỉ 3% tỷ
lệ hộ nghèo, tương đương 17.000 hộ; đến cuối năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh
còn dưới 12% (theo chuẩn cũ), đạt mục tiêu Nghị quyết của tỉnh đề ra.
- Đã tạo được sự chuyển biến
vượt bậc về hạ tầng cơ sở, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân nâng lên
rõ nét, bộ mặt nông thôn trên mọi miền trong tỉnh có nhiều khởi sắc.
2. Tồn tại, hạn chế và nguyên
nhân:
a. Tồn tại, hạn chế.
- Tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh vẫn
cao hơn so với bình quân chung cả nước (năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh 12%,
cả nước 9%), trong đó tỷ lệ hộ nghèo khu vực miền núi đang còn ở mức cao, hộ
nghèo tập trung với tỷ lệ lớn ở vùng miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng
ven biển; kết quả giảm nghèo chưa vững chắc, nguy cơ tái nghèo cao (xấp xỉ 10%
số hộ nghèo).
- Nguồn lực thực hiện các
chương trình, dự án hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo, xã nghèo vẫn ít so với nhu cầu,
nhất là: khuyến nông, lâm, ngư, phát triển ngành nghề, xây dựng cơ sở hạ tầng,
hỗ trợ nhà ở...;
- Công tác chỉ đạo điều hành
chưa quyết liệt, chưa sát đúng. Công tác nghiên cứu, lựa chọn hỗ trợ xây dựng
các mô hình giảm nghèo bền vững để nhân diện rộng chưa được quan tâm đúng mức,
chưa kết hợp được việc đầu tư phát triển sản xuất với chuyển giao khoa học công
nghệ, khuyến nông, lâm, ngư cho người dân.
- Một số chính sách ưu đãi hộ
nghèo chưa phù hợp, chưa có tác dụng khuyến khích hộ nghèo, xã nghèo phấn đấu
vượt nghèo cho nên làm hạn chế kết quả xoá đói giảm nghèo.
b. Nguyên nhân.
* Về khách quan:
- Điểm xuất phát thấp, Nghệ An
vẫn đang là một tỉnh nghèo, ngân sách địa phương đầu tư hỗ trợ cho chương trình
giảm nghèo còn thấp, khả năng đầu tư mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh,
phát triển kinh tế để tạo mở việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, nhất
là lao động nghèo còn hạn chế.
- Địa hình cách trở, khí hậu,
thời tiết khắc nghiệt, trình độ dân trí thấp, phong tục, tập quán còn lạc hậu… ở
một số vùng, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa đã làm hạn
chế quá trình tổ chức thực hiện chương trình.
- Đại bộ phận hộ nghèo của tỉnh
có nguồn thu nhập chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp, thu nhập bấp bênh, giá cả vật
tư, phân bón tăng cao làm hạn chế khả năng vươn lên thoát nghèo.
- Một số văn bản hướng dẫn thực
hiện các chủ trương, chính sách liên quan đến việc thực hiện Chương trình giảm
nghèo của các Bộ, ngành TW còn chậm, thiếu đồng bộ dẫn đến việc tổ chức triển
khai vướng mắc, lúng túng.
* Về chủ quan:
- Nhận thức của một số lãnh đạo
cấp uỷ, chính quyền, tổ chức đoàn thể về công tác giảm nghèo chưa thực sự sâu sắc
và toàn diện, một bộ phận hộ nghèo vẫn còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ
trợ của Nhà nước, chưa có ý thức và trách nhiệm vươn lên thoát nghèo.
- Sự chỉ đạo của các cấp, các
ngành chưa quyết liệt, kịp thời; thiếu sự chủ động, sáng tạo trong quá trình tổ
chức thực hiện. Năng lực quản lý, điều hành chương trình giảm nghèo của cán bộ,
nhất là cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) còn nhiều hạn chế. Định biên cán bộ
chuyên trách làm công tác Lao động - TB&XH (trong đó có nhiệm vụ quản lý
Chương trình giảm nghèo) chưa được bố trí làm ảnh hưởng đến việc quản lý và điều
hành từ cơ sở.
Phần thứ
hai
NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP THỰC
HIỆN CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU GIẢM NGHÈO GIAI ĐOẠN 2011 - 2015
I. DỰ BÁO NHỮNG THUẬN LỢI,
KHÓ KHĂN
1. Thuận lợi:
- Tốc độ phát triển kinh tế của
tỉnh tiếp tục giữ mức tăng trưởng ổn định, đời sống của nhân dân từng bước được
cải thiện. Chương trình giảm nghèo tiếp tục được sự quan tâm vào cuộc của các cấp,
các ngành, các tổ chức chính trị xã hội và người dân.
- Nhiều chương trình, dự án gắn
với mục tiêu giảm nghèo được triển khai thực hiện như Chương trình mục tiêu Quốc
gia việc làm, Chương trình xây dựng nông thôn mới, Chương trình dạy nghề cho
lao động nông thôn… Các chính sách, dự án đầu tư hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo,
xã nghèo tiếp tục được bổ sung, tác động tích cực đến đời sống hộ nghèo. Đặc biệt
là những chính sách mới ban hành như Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ,
Chính sách hỗ trợ giảm nghèo của tỉnh đối với 42 xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 30% trở
lên. Do vậy, nguồn lực cho chương trình giảm nghèo tiếp tục được đầu tư cao hơn
so với giai đoạn trước, được ưu tiên tập trung cho mục tiêu giảm nghèo và các
vùng nghèo; tạo mọi điều kiện để giảm nghèo nhanh và bền vững.
- Quá trình thực hiện chương
trình xóa đói giảm nghèo đã thu được nhiều kết quả và bài học kinh nghiệm về cơ
chế, chính sách, quản lý, điều hành, huy động nguồn lực và chỉ đạo, thực hiện.
Xóa đói giảm nghèo đã trở thành phong trào sâu rộng, mang tính xã hội hóa cao.
2. Khó khăn:
- Tác động của cơ chế kinh tế thị
trường, tình hình lạm phát, chỉ số giá cả biến động khó lường tiếp tục ảnh hưởng
không nhỏ đến đời sống, sinh hoạt của nhân dân, nhất là hộ nghèo và hộ cận
nghèo, phân hoá giàu nghèo diễn ra ngày càng sâu sắc.
- Tiến trình đô thị hóa, xây dựng
các khu công nghiệp của tỉnh sẽ phát sinh những tác động tiêu cực ảnh hưởng đến
một bộ phận dân cư trở nên nghèo hoặc tái nghèo trở lại do bị thu hồi đất sản
xuất.
- Cơ sở hạ tầng các xã nghèo tuy
được tăng cường một bước, nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu đang đòi hỏi phải được
tăng nhanh đầu tư và cải tạo để tạo điều kiện cho người nghèo tiếp cận các dịch
vụ xã hội cơ bản về y tế, giáo dục, văn hóa,…
- Thiên tai, hạn hán, dịch bệnh cây trồng và vật nuôi diễn biến
phức tạp, khó lường ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống của nhân dân; điều
kiện vật chất cơ sở hạ tầng yếu kém, phong tục tập quán sản xuất, sinh hoạt còn
lạc hậu, đời sống của một bộ phận dân cư gặp nhiều khó khăn, nhất là vùng đồng
bào miền núi, dân tộc thiểu số.
- Nhận thức của một bộ
phận dân cư về công tác giảm nghèo còn hạn chế, vẫn còn tư tưởng trông chờ ỷ lại
vào sự hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng, thiếu kiến thức và kinh nghiệm làm ăn
để vươn lên thoát nghèo.
II. THỰC TRẠNG HỘ NGHÈO CỦA TỈNH
ĐẦU NĂM 2011
1. Thực trạng hộ nghèo:
Theo số liệu điều tra hộ nghèo
cuối năm 2010 theo chuẩn nghèo quy định tại Chỉ thị số 1752/CT-TTg ngày 21
tháng 9 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức tổng điều tra hộ nghèo
trên toàn quốc phục vụ cho việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội giai đoạn
2011-2015; thực trạng hộ nghèo của tỉnh đầu năm 2011 như sau:
- Tổng số hộ nghèo cả tỉnh:
164.290 hộ, chiếm tỷ lệ 22,89%;
- Tổng số hộ cận nghèo: 96.538 hộ,
chiếm tỷ lệ 13,45%;
- Số hộ nghèo Khu vực Thành thị:
6.430 hộ, chiếm tỷ lệ 5,36%;
- Số hộ nghèo Khu vực Nông thôn:
157.851 hộ, chiếm tỷ lệ 26,40%;
- Số hộ nghèo Vùng Đồng bằng:
69.543 hộ, chiếm tỷ lệ 15,22%;
- Số hộ nghèo Vùng Miền núi:
94.747 hộ, chiếm tỷ lệ 36,19%;
Tỷ lệ hộ nghèo của các xã (phường,
thị trấn), phân theo các nhóm tỷ lệ phản ánh như sau: số xã có tỷ lệ hộ nghèo
dưới 5%: 29 xã, từ 5 đến dưới 10%: 65 xã, từ 10 đến dưới 20%: 154 xã, từ 20 đến
dưới 30%: 89 xã, từ 30 đến dưới 40%: 38 xã, từ 40 đến dưới 50%: 24 xã, từ 50 đến
dưới 60%: 21 xã, từ 60 đến dưới 70%: 17 xã, trên 70%: 42 xã.
Trong số 479 xã, phường, thị trấn
có 142 xã có tỷ lệ hộ nghèo cao từ 30% trở lên, tập trung ở 10 huyện miền núi của
tỉnh.
2. Nguyên nhân nghèo:
- Trong 3 nhóm chỉ tiêu
điều tra về nguyên nhân nghèo của các hộ nghèo trên địa bàn tỉnh được phân tích
cụ thể như sau:
+ Do thiếu tư liệu sản
xuất: vốn, đất đai, tư liêu sản xuất khác, chiếm 55,63%.
+ Do thiếu lao động,
đông người ăn theo, không có việc làm…, chiếm 24,64%.
+ Do ốm đau, bệnh tât, mắc
các tệ nạn xã hội, chây lười…, chiếm 19,73%.
- Nguyện vọng được trợ
giúp của hộ nghèo đó là:
+ Hỗ trợ vay vốn, tư liệu
sản xuất: 56,67%.
+ Hỗ trợ học nghề, việc
làm, xuất khẩu lao động, hướng dẫn cách làm ăn: 24,46%.
+ Trợ gúp xã hội:
17,87%.
III. MỤC TIÊU CHƯƠNG TRÌNH GIẢM
NGHÈO GIAI ĐOẠN 2011 - 2015:
1. Mục tiêu tổng quát:
Tiếp tục phát huy những kết quả đạt được của Chương trình giảm nghèo trong giai đoạn 2006 - 2010, tập trung nguồn lực đầu
tư tạo sự chuyển biến tích cực hơn về thu nhập, điều kiện sinh hoạt và chất lượng
cuộc sống của người nghèo. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn
với mục tiêu giảm nghèo bền vững, đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn
với giải quyết việc làm nhằm tạo cơ hội để người nghèo, hộ nghèo có
việc làm và thu nhập ổn định, từng bước vươn lên thoát
nghèo. Đảm bảo cho mọi người dân có điều kiện tiếp cận, hưởng thụ
những thành quả về hạ tầng cơ sở, văn hoá, giáo dục, y tế, an sinh xã hội...
2. Mục tiêu cụ thể:
a) Giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân
hàng năm từ 2,5 - 3%, riêng đối với 3 huyện nghèo theo Nghị quyết số
30a/2008/NQ-CP của Chính phủ và các xã có tỷ lệ hộ nghèo cao từ 30% trở lên
theo Quyết định số 59/2010/QĐ-UBND của UBND tỉnh giảm bình quân từ 4 - 5%/ năm.
Phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh từ 22,89% đầu năm 2011 xuống còn 10% cuối
năm 2015, giảm tương đương 88.800 hộ nghèo, bình quân hàng năm 17.800 hộ.
b) Tạo việc làm ổn định và đa dạng
các hoạt động mang lại thu nhập cho người nghèo; tăng thu nhập bình quân đầu
người của các hộ nghèo lên 3 lần so với năm 2010.
c) Đẩy nhanh tiến độ thực hiện chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở theo
Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đảm bảo hoàn thành cơ bản
trong năm 2011, năm 2012 kết thúc và tổng kết việc hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo của
tỉnh.
d) Đảm bảo 100% người nghèo được
cấp thẻ BHYT và khám chữa bệnh miễn phí; 70% số người cận nghèo được mua thẻ
BHYT, 100% học sinh con hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số, con em hộ gia
đình chính sách người có công được tiếp tục miễn giảm học phí và các khoản đóng
góp.
VI. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP THỰC
HIỆN:
1. Tăng cường tuyên truyền,
nâng cao nhận thức về công tác giảm nghèo:
Công tác tuyên truyền, nâng cao
nhận thức về xóa đói giảm nghèo cần tiếp tục được quan tâm hơn, cụ thể trên các
nội dung:
- Tuyên truyền sâu rộng trong
các tầng lớp nhân dân về chủ trương, chính sách xóa đói giảm nghèo của Đảng và
Nhà nước và xác định rõ bản thân người nghèo phải tự vươn lên thoát nghèo là
chính, chống tư tưởng trông chờ, ỷ lại sự hỗ trợ của nhà nước, cộng đồng.
- Nâng cao nhận thức và đề cao
trách nhiệm của các cấp, các ngành, đưa công tác giảm nghèo gắn với nhiệm vụ của
cơ quan, đơn vị mình và xoá đói giảm nghèo phải trở thành phong trào cách mạng
chung của toàn xã hội, là tiêu chí để đánh giá sự đóng góp của cá nhân và tập
thể vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
- Cán bộ lãnh đạo các cấp, các
ngành trong tỉnh phải phát huy tinh thần và lòng tự hào quê hương giàu truyền
thống cách mạng để lãnh đạo nhân dân, nhất là người nghèo vươn lên thoát nghèo,
không tự ty, mặc cảm.
2. Phát triển kinh tế - xã hội,
gắn giải quyết việc làm với giảm nghèo bền vững.
- Tập trung phát triển các
chương trình kinh tế trọng điểm theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh khoá XVII
đề ra. Trong giai đoạn 2011 - 2015, cần tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện
có hiệu quả các chương trình, đề án như: chương trình nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, chương trình xây dựng nông thôn mới, chương trình ứng dụng và phát
triển công nghệ cao đến năm 2020, đề án phát triển kinh tế miền Tây Nghệ An thời
kỳ 2010 - 2020,…
- Cải thiện tốt môi trường và bổ
sung cơ chế thu hút đầu tư để ngày càng có nhiều các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh đầu tư sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
trên địa bàn, nhất là địa bàn các huyện nghèo, xã nghèo nhằm tạo tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao, vừa giải quyết được nhiều việc làm tại chỗ cho lao động địa
phương, vừa góp phần giảm nghèo bền vững. Trong thời kỳ 2011 - 2015, tập trung
chỉ đạo, thu hút nguồn lực để thực hiện đúng kế hoạch 25 danh mục dự án trọng
điểm đã có nhà đầu tư và 67 danh mục dự án xúc tiến, vận động đầu tư trên địa
bàn tỉnh, với tổng số vốn huy động từ nhà đầu tư trên 164.200 tỷ đồng; bình
quân hàng năm xấp xỉ 33.000 tỷ đồng.
- Tổ chức thực hiện tốt chương
trình giải quyết việc làm và đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Phấn đấu hàng năm giải
quyết việc làm mới cho 5 vạn lao động, trong đó: xuất khẩu lao động đi làm việc
có thời hạn ở ngoài nước trên 10.000 người/năm. Tập trung chỉ đạo có hiệu quả
chính sách hỗ trợ XKLĐ ở 3 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a của Chính phủ và 42
xã nghèo theo chính sách của tỉnh; phấn đấu mỗi năm đưa lao động tại các huyện
nghèo, xã nghèo đi xuất khẩu lao động 10 người/xã.
3. Tổ chức tốt chường trình
đào tạo nguồn nhân lực, đẩy mạnh khuyến nông, lâm, ngư nghiệp, hướng dẫn cách
làm ăn cho người nghèo, nâng cao năng lực cho đội ngũ làm công tác giảm nghèo
và cán bộ chủ chốt ở các xã nghèo.
- Thực hiện có hiệu
quả đề án dạy nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020 theo Quyết định số
1956/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã được UBND tỉnh phê duyệt; áp dụng chính
sách đào tạo nghề miễn phí cho lao động nông thôn thuộc hộ nghèo, người
dân tộc thiểu số. Phấn đấu nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề từ 33% năm 2010
lên 52% năm 2015, trong đó lao động thuộc các hộ nghèo từ 20% lên 50%. Dự báo
lao động thuộc hộ nghèo được đào tạo trong 5 năm khoảng 122.500 người, bình
quân hàng năm là 24.500 người.
- Đẩy mạnh hoạt động khuyến
nông, lâm, ngư nghiệp, chuyển giao tiến bộ khoa học trong nông nghiệp, hướng dẫn
cách làm ăn cho người nghèo, kết hợp xây dựng các mô hình giảm nghèo bền vững:
+ Các hoạt động khuyến nông,
lâm, ngư nghiệp như: các lớp tập huấn ngắn ngày, hội nghị đầu bờ cho người
nghèo phải tổ chức theo hình thức “cầm tay chỉ việc”. Hướng dẫn kỹ thuật trồng
trọt và chăn nuôi, bảo quản, chế biến nông lâm ngư phải phù hợp với điều kiện của
từng địa phương trong tỉnh để các hộ nghèo có thể áp dụng được, như: đối với
vùng miền núi cao cần tập trung vào các lĩnh vực trồng rừng, chăn nuôi đại gia
súc; vùng miền núi thấp tập trung vào chăn nuôi đại gia súc, cây công nghiệp;
vùng đồng bằng thâm canh lúa, cây hoa màu, chăn nuôi gia súc, gia cầm; vùng ven
biển nuôi trồng và chế biến thuỷ hải sản.
+ Ngoài việc tổ chức tập huấn,
hướng dẫn về kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi cho người nghèo; căn cứ đặc thù điều
kiện tự nhiên và tiềm năng của từng vùng, từng địa phương chỉ đạo xây dựng các
mô hình khuyến nông, lâm, ngư kết hợp với các mô hình xoá đói giảm nghèo có hiệu
quả. Phấn đấu trong 5 năm toàn tỉnh xây dựng 150 mô hình tại các xã, cho 25.000
hộ nghèo được hưởng lợi.
- Quan tâm đến chất lượng đội
ngũ cán bộ làm công tác giảm nghèo cấp xã và xóm bản. Thông qua việc tổ chức tốt
các lớp tập huấn ngắn ngày để hướng dẫn nội dung những kỹ năng trong việc xây dựng
kế hoạch, dự án và tổ chức thực hiện đối với cán bộ làm công tác giảm nghèo các
cấp. Nội dung tập huấn cải tiến theo hướng đơn giản và cụ thể cho từng đối tượng,
phù hợp với trình độ người học và thực tiễn đòi hỏi của chương trình đề ra theo
từng giai đoạn, không rập khuôn, máy móc. Phấn đấu số cán bộ được tập huấn hàng
năm từ 5 người lên 15 người/ xã.
Ngoài ra, chương trình đào tạo
cán bộ, công chức cấp xã cần ưu tiên bồi dưỡng năng lực cho đội ngũ cán bộ chủ
chốt: Bí thư, Chủ tịch các xã thuộc các xã nghèo, các xã vùng miền núi của tỉnh
về nghiệp vụ quản lý, điều hành các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội tại
các địa phương được tốt hơn.
4. Thực hiện tốt các chính
sách, dự án thuộc chương trình MTQG giảm nghèo trên địa bàn.
4.1. Các chính sách,
dự án tạo điều kiện cho người nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập
a) Chính sách tín dụng ưu đãi
hộ nghèo
- Đảm bảo cho 100% hộ nghèo được
vay vốn tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh với điều kiện ưu đãi về lãi suất,
thời hạn vay để sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, cải thiện đời sống; đồng thời,
có sự hướng dẫn sử dụng vốn một cách có hiệu quả. Bên cạnh đó, cần rà soát các
thủ tục, cơ chế cho vay, tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ nghèo có điều kiện
tiếp cận được các nguồn vốn vay. Nâng dần mức cho vay bình quân của hộ nghèo đến
năm 2015 lên 20 triệu đồng/hộ.
- Thực hiện cơ chế: Hộ nghèo đã
thoát nghèo nhưng đang trong thời gian thực hiện hợp đồng tín dụng thì tiếp tục
được hưởng chính sách này đến hết hợp đồng. áp dụng linh hoạt phương thức cho
vay, chủ yếu là ủy thác từng phần cho các tổ chức chính trị - xã hội trên cơ sở
hình thành các nhóm tín dụng - tiết kiệm của các tổ chức chính trị - xã hội (phụ
nữ, nông dân, thanh niên). Gắn vay vốn tạo việc làm tại chỗ với dạy nghề, hướng
dẫn cách làm ăn, khuyến nông, khuyến công và chuyển giao kỹ thuật, công nghệ
vào sản xuất.
- Tiếp tục củng cố và phát triển
“ Tổ vay vốn” tại cơ sở, đảm bảo tất cả hộ nghèo đều tham gia vào các tổ vay vốn
để tiếp cận đầy dủ chính sách này. Lãnh đạo các xã, phường, thị trấn cần đề cao
trách nhiệm để thực hiện tốt hơn việc vay vốn tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo trên
địa bàn.
- Chỉ tiêu:
252.200 lượt hộ nghèo được vay vốn, doanh số cho vay 4.255.850 triệu đồng.
b) Phát triển hệ thống hạ tầng
cơ sở thiết yều các xã nghèo
- Tập trung đầu tư xây dựng hệ
thống hạ tầng cơ sở ở các xã đặc biệt khó khăn, các xã nghèo thuộc vùng bãi ngang
ven biển về điện, giao thông, thủy lợi, trường học, trạm y tế, nước sinh hoạt,
… phục vụ cho sản xuất và đời sống dân sinh. Kế hoạch 5 năm, đầu tư xây dựng
khoảng 755 công trình hạ tầng cơ sở tại các xã nghèo, tổng mức đầu tư khoảng
755 tỷ đồng.
- Ngoài ra, trong danh mục các dự
án hạ tầng quan trọng có sử dụng vốn ngân sách giai đoạn 2011 - 2015, cần tập
trung ưu tiên xây dựng 38 cầu thay thế bến đò và cầu qua sông, suối không có bến
đò phục vụ nhân dân, học sinh đi lại, phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn,
với số vốn 1.345 tỷ đồng; Xây dựng 2.903 phòng học và 61.560 m2 nhà công vụ cho
giáo viên theo Đề án kiên cố hoá trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên,
với số vốn 1.500 tỷ đồng; Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho hệ thống trạm
y tế 128 xã và phòng khám đa khoa khu vực, với số vốn 2.000 tỷ đồng.
c) Chính sách hỗ trợ nhà ở
cho hộ nghèo
Tập trung chỉ đạo và huy động tối đa các nguồn lực hỗ trợ từ Ngân sách
nhà nước, vay vốn ngân hàng, hỗ trợ của các doanh nghiệp, của cộng đồng, dòng họ
và nguồn tự có của hộ nghèo để đẩy nhanh tiến độ thực hiện chính sách hỗ trợ hộ
nghèo về nhà ở theo Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ hoàn
thành cơ bản trong năm 2011.
4.2. Tạo điều kiện để người
nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội
a) Về y tế, giáo dục cho người
nghèo
- Hàng năm ngân sách Nhà nước
mua và cấp thẻ BHYT cho 100% người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và nhân dân
ở các xã vùng khó khăn; Hỗ trợ 80 - 90% mệnh giá BHYT cho nhân khẩu hộ cận
nghèo. Huy động cộng đồng trong việc xây dựng quỹ khám chữa bệnh miễn phí cho
người nghèo, khám chữa bệnh nhân đạo, khuyến khích các đội y tế lưu động phục vụ
vùng sâu, vùng xa. Xác định rõ trách nhiệm của người nghèo trong công tác phòng
bệnh, tự bảo vệ chăm lo sức khoẻ, vệ sinh môi trường sống và thực hiện chính
sách dân số kế hoạch hoá gia đình.
- Chỉ tiêu: 3.160.000 lượt người
nghèo được cấp thẻ BHYT, kinh phí thực hiện 1.415.680 triệu đồng; 1.129.495 lượt
người cận nghèo tham gia BHYT, kinh phí thực hiện 506.014 triệu đồng.
- Đảm bảo 100% học sinh nghèo
các cấp học được miễn giảm học phí, học sinh - sinh viên nghèo có nhu cầu được
vay vốn ưu đãi để học tập.
- Đẩy mạnh xã hội hóa trong giáo
dục, vận động các tổ chức, hội đoàn thể tạo điều kiện cho con hộ nghèo đến trường
bằng nhiều hình thức: hỗ trợ học bổng, dụng cụ học tập, sách, vở, phương tiện
đi lại...
- Chỉ tiêu: 504.000 lượt học
sinh được hỗ trợ về giáo dục, kinh phí thực hiện 204.850 triệu đồng.
b) Trợ giúp pháp lý cho người
nghèo
- Trợ giúp pháp lý miễn phí cho
những hộ nghèo có nhu cầu về các lĩnh vực: đất đai, nhà ở, thừa kế, hộ khẩu, hộ
tịch, hôn nhân gia đình và các chế độ chính sách của nhà nước đối với hộ nghèo,
người nghèo.
- Tăng cường năng lực cho các tổ
chức thực hiện trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý, Tư pháp xã,
Tổ hòa giải, câu lạc bộ trợ giúp pháp lý cấp xã.
- Chỉ tiêu: 25.000 lượt người
nghèo được hỗ trợ pháp lý miễn phí, kinh phí thực hiện 5.000 triệu đồng.
c) Về chính sách an sinh xã hội
- Thực hiện tốt chính sách người
có công và các phong trào “ Đền ơn đáp nghĩa”, đảm bảo 100% gia đình người có
công với cách mạng có mức sống ngang bằng hoặc cao hơn mức sống của dân cư nơi
cư trú.
- Trợ cấp đột xuất cho đối tượng
có hoàn cảnh khó khăn do tai nạn, thiên tai, bệnh hiểm nghèo; trợ cấp thường
xuyên cho đối tượng bảo trợ xã hội, trong đó có người nghèo đơn thân đang nuôi
con nhỏ, theo Nghị định số 67/2007/NĐ-CP, Nghị định số 13/2009/NĐ - CP của
Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội;
- Lồng ghép các chương trình, dự
án của các đơn vị, hội đoàn thể giúp đỡ đối tượng bảo trợ xã hội, đặc biệt quan
tâm hộ nghèo có đối tượng bảo trợ xã hội.
5. Ưu tiên nguồn lực đầu tư
cho các huyện nghèo theo Nghị quyết 30a của Chính phủ và 42 xã nghèo theo Quyết
định số 59/2010/QĐ-UBND ngày 12 tháng 8 năm 2010 của UBND tỉnh.
- Tổ chức thực hiện đầy đủ, kịp
thời các chính sách hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững tại 3 huyện nghèo Kỳ
Sơn, Tương Dương, Quế Phong theo mục tiêu Nghị quyết sô 30a/2008/NQ-CP ngày 27
tháng 12 năm 2008 của Chính phủ và tại 42 xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 30% trở lên
theo Quyết định số 59/2010/QĐ-UBND ngày 12 tháng 8 năm 2010 của UBND tỉnh nhằm
đẩy nhanh tốc độ giảm tỷ lệ hộ nghèo của các địa phương này nhanh hơn bình quân
chung các địa phương khác trong cùng khu vực. Trong đó, tổ chức tốt chính sách
luân chuyển, tăng cường cán bộ và thu hút trí thức trẻ về làm việc tại các xã
nghèo. Ngoài 3 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/CP, đối với 42 xã nghèo theo quyết
định 59/2010/QĐ-UBND của UBND tỉnh thực hiện tăng cường cho mỗi xã 1 cán bộ có
đủ tiêu chuẩn về giữ chức danh Phó chủ tịch UBND theo kế hoạch đã được phê duyệt
của Bộ Nội vụ.
- Chỉ tiêu phấn đấu:
+ Giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân
hàng năm từ 4 -5%/năm.
+ Nguồn lực thực hiện: Nghị quyết
30a: 1.500 tỷ đồng, 42 xã nghèo: 85,5 tỷ đồng.
6. Phát huy vai trò tích cực
của các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội trong việc thực hiện Chương trình ở
các cấp. Phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh với Ban
chỉ đạo Chương trình giảm nghèo các cấp tập trung chỉ đạo giúp đỡ, hỗ trợ các
xã nghèo, hộ nghèo.
Đề nghị Uỷ ban mặt trận Tổ quốc
cần tổ chức tuyên truyền vận động toàn dân ủng hộ người nghèo, tiếp tục phát động
cuộc vận động ủng hộ “Quỹ vì người nghèo”, kêu gọi tài trợ từ các doanh nghệp,
tập đoàn kinh tế, các nhà hảo tâm để tăng thêm nguồn lực thực hiện mục tiêu giảm
nghèo của tỉnh. Thường xuyên phối hợp với
Ban chỉ đạo giảm nghèo các cấp quản lý và sử dụng nguồn Quỹ đảm bảo đúng mục
đích, có hiệu quả.
Các tổ chức đoàn thể xã hội tiếp
tục duy trì và phát huy những kết quả đã đạt được, tích cực giúp đỡ những hội
viên nghèo, yếu thế của tổ chức mình trong việc tiếp cận các chính sách ưu đãi,
nhất là chính sách tín dụng đối với hộ nghèo, góp phần thực hiện thắng lợi mục
tiêu giảm nghèo của tỉnh đã được xác định.
- Phân công các sở, ngành, cơ
quan, đơn vị cấp tỉnh chịu trách nhiệm giúp đỡ, hướng dẫn một xã nghèo thuộc 3
huyện Kỳ Sơn, Tương Dương và Quế Phong thực hiện kế hoạch giảm nghèo (Có phụ lục
kèm theo); định kỳ 06 tháng báo cáo kết quả về cơ quan thường trực BCĐ giảm
nghèo tỉnh. Các huyện có xã nghèo theo Quyết định số 59/2010/QĐ-UBND ngày 12
tháng 8 năm 2010 của UBND tỉnh phân công một phòng, ban hoặc tổ chức chính trị
xã hội cấp huyện giúp đỡ một xã nghèo. Mỗi cán bộ đảng viên tại các xã nghèo được
phân công giúp đỡ một hộ nghèo trên địa bàn.
7. Huy động nguồn lực cho
Chương trình:
Dự kiến nhu cầu nguồn lực cho
các chính sách, dự án giảm nghèo giai đoạn 2011 - 2015 khoảng 9.023 tỷ đồng,
bình quân hàng năm: 1.804,6 tỷ đồng (Có phụ lục kèm theo); Trong đó:
- Ngân sách Trung ương: 3.847 tỷ
đồng;
- Ngân sách tỉnh: 170,5 tỷ đồng.
- Vốn lồng ghép: 429 tỷ đồng.
- Vốn vay ngân hàng: 4.256 tỷ đồng.
- Nguồn huy động xã hội hoá từ cộng
đồng, người dân: 320,5 tỷ đồng.
V. PHÂN CÔNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Sở Lao động - Thương binh và
Xã hội:
a) Là Cơ quan thường trực của
Chương trình, giúp Ban chỉ đạo các Chương trình giảm nghèo tỉnh chỉ đạo thực hiện;
chủ trì và phối hợp với các sở, ngành liên quan xây dựng kế hoạch 5 năm và hàng
năm về mục tiêu, nhiệm vụ, các giải pháp và nhu cầu kinh phí thực hiện chương
trình; tổng hợp kết quả báo cáo UBND tỉnh và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
b) Chủ trì tổ chức thực hiện một
số dự án: Hỗ trợ xây dựng cơ sợ hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang
ven biển, dạy nghề cho người nghèo; mô hình giảm nghèo, nâng cao năng lực giảm
nghèo và truyền thông; hoạt động giám sát đánh giá;
c) Đôn đốc, kiểm tra, giám sát
tình hình thực hiện Chương trình của các sở, ngành, đơn vị, UBND các huyện,
thành, thị.
2. Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ
trì, phối hợp với Sở Tài chính, Sở Lao động - TB&XH và các đơn vị liên quan
cân đối và phân bổ nguồn lực cho Chương trình; phối hợp với các sở, ngành liên
quan lồng ghép thực hiện các chương trình, dự án giảm nghèo trên địa bàn.
3. Sở Tài chính chủ trì, phối hợp
với Sở Kế hoạch và Đầu tư bố trí ngân sách cho các sở, ngành, địa phương
triển khai thực hiện Chương trình theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và
các văn bản khác có liên quan; đồng thời, giám sát, kiểm tra, hướng dẫn sử dụng
nguồn kinh phí đúng mục đích, có hiệu quả.
4. Sở Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn chủ trì, thực hiện dự án khuyến nông - lâm - ngư và phát triển sản xuất,
phát triển ngành nghề, hướng dẫn cách làm ăn, chuyển giao kỹ thuật cho hộ
nghèo.
5. Sở Giáo dục và Đào tạo chủ
trì thực hiện chính sách hỗ trợ về giáo dục cho người nghèo.
6. Sở Y tế, Bảo hiểm Xã hội tỉnh
chủ trì thực hiện chính sách hỗ trợ về y tế cho người nghèo.
7. Sở Xây dựng chủ trì thực hiện
chính sách hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo.
8. Sở Tư pháp chịu trách nhiệm
thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo.
9. Ban Dân tộc chủ trì xây dựng
và triển khai thực hiện dự án hỗ trợ xây dựng hạ tầng cơ sở ở các xã nghèo đặc
biệt khó khăn vùng miền núi, các chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số.
10. Ngân hàng Chính sách xã hội
tỉnh chịu trách nhiệm thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo để phát
triển sản xuất, kinh doanh; kết hợp giữa cho hộ nghèo vay vốn với hướng dẫn
cách làm ăn, cho học sinh - sinh viên hộ nghèo học đại học, cao đẳng và học nghề
vay vốn để học tập; chủ động đề xuất Ngân hàng chính sách xã hội Trung ương bổ
sung nguồn vốn vay. Thường xuyên giám sát hiệu quả sử dụng vốn vay, chống thất
thoát, nợ quá hạn...
11. Các cơ quan truyền thông:
Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh, Báo Nghệ An và các cơ quan thông tấn, báo
chí Trung ương, địa phương chịu trách nhiệm chỉ đạo tổ chức thực hiện công
tác tuyên truyền chủ trương, chính sách giảm nghèo, giới thiệu các điển hình,
mô hình giảm nghèo tiêu biểu để nhân rộng.
12. UBND các huyện, thành phố,
thị xã:
Căn cứ Chương trình mục tiêu giảm
nghèo của tỉnh, xây dựng Kế hoạch giảm nghèo của địa phương; chủ động huy động
các nguồn lực. Phân công nhiệm vụ cho từng thành viên Ban Chỉ đạo; chỉ đạo UBND
các xã, phường triển khai và theo dõi thực hiện chương trình một cách chặt chẽ,
có hiệu quả.
Định kỳ 06 tháng, một năm báo
cáo UBND tỉnh về tình hình thực hiện Chương trình (qua cơ quan thương trực Ban
Chỉ đạo Chương trình mục tiêu giảm nghèo tỉnh).
13. Đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam tỉnh Nghệ An tham gia thực hiện Chương trình và giám sát việc thực
hiện Chương trình ở các cấp, các địa phương; vận động xây dựng Quỹ Vì người
nghèo; thông qua phong trào xây dựng khu dân cư văn hoá, vận động nhân dân hỗ
trợ giúp đỡ người nghèo. Tiếp tục vận động các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế
các tổ chức xã hội, nhân đạo tham gia huy động đóng góp nguồn lực với mục tiêu
hỗ trợ người nghèo về nhà ở, học tập, khám chữa bệnh miễn phí, trợ cấp khó
khăn….
14. Đề nghị các hội, đoàn thể tham
gia thực hiện Chương trình, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước cho nhân dân, đặc biệt là người nghèo; đăng ký giúp
đỡ hộ nghèo sớm thoát nghèo bền vững. Tổ chức các lớp tập huấn các lớp ngắn
ngày hướng dẫn cách làm ăn cho người nghèo; chẩn chỉnh tổ chức và hoạt động của
các Tổ tiết kiệm - Tín dụng, “Tổ tương trợ”, nhân rộng các mô hình điển hình.
15. Đề nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy
ban hành Nghị quyết về tăng cường công tác lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với
việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo thời gian tới, để chương trình đạt được kế
hoạch đã đề ra./.
UỶ
BAN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN