HỘI
ĐỒNG THẨM PHÁN
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
--------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------
|
Số:
01/2011/NQ-HĐTP
|
Hà
Nội, ngày 29 tháng 7 năm 2011
|
NGHỊ QUYẾT
HƯỚNG DẪN THI HÀNH MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA NGHỊ QUYẾT SỐ 56/2010/QH12 NGÀY
24-11-2010 CỦA QUỐC HỘI VỀ VIỆC THI HÀNH LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ Luật tổ
chức Toà án nhân dân;
Để thi hành
đúng và thống nhất các quy định của Nghị quyết số 56/2010/QH12 ngày 24-11-2010
của Quốc hội về việc thi hành Luật tố tụng hành chính (sau đây viết tắt là NQ số
56);
Sau khi có ý kiến
thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư
pháp,
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản
án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Luật tố tụng hành
chính có hiệu lực
1. Thời hạn kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định của Toà án
đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Luật tố tụng hành chính được công bố (ngày
07-12-2010) thì áp dụng theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều
69 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính; cụ thể như sau:
a) Thời hạn kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là 01 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của
Toà án có hiệu lực pháp luật;
b) Thời hạn kháng
nghị theo thủ tục tái thẩm là 01 năm, kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị
biết được căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm quy định tại khoản
2 Điều 67 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
2. Thời hạn kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định của Toà án
đã có hiệu lực pháp luật từ ngày Luật tố tụng hành chính được công bố (ngày 07-12-2010)
đến ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực (ngày 01-7-2011) thì áp dụng theo
quy định tại Điều 215 và Điều 236 của Luật tố tụng hành chính;
cụ thể như sau:
a) Trường hợp
đương sự không có đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong thời
hạn 01 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật thì
thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là 02 năm, kể từ ngày bản án,
quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật;
b) Trường hợp
đương sự có đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong thời hạn 01
năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật thì thời hạn
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 215 của Luật tố tụng hành chính (hết thời hạn 02
năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật nhưng chưa
có kháng nghị mà phát hiện vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong bản án, quyết định
thì người có quyền kháng nghị được kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với
bản án, quyết định đó);
c) Thời hạn kháng
nghị theo thủ tục tái thẩm là 01 năm, kể từ ngày người có quyền kháng nghị biết
được căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm quy định tại Điều
233 của Luật tố tụng hành chính.
3. Để có căn cứ
tính thời hạn kháng nghị theo quy định tại điểm a và điểm b khoản
1 Điều 2 NQ số 56 và hướng dẫn tại khoản 2 Điều này, Toà án có thẩm quyền
giám đốc thẩm phải có sổ thụ lý đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
và thông báo việc thụ lý đơn đề nghị cho đương sự biết. Trường hợp được hướng dẫn
tại điểm b khoản 2 Điều này thì người kháng nghị giám đốc thẩm phải chứng minh
là đã nhận được đơn đề nghị giám đốc thẩm của đương sự trong thời hạn quy định.
Trường hợp cần thiết, Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm có thể yêu cầu đương sự
chứng minh là đã có đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong thời
hạn quy định.
Điều 2. Áp dụng pháp
luật tố tụng hành chính để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối
với bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Luật tố tụng
hành chính có hiệu lực
1. Kể từ ngày Luật
tố tụng hành chính có hiệu lực pháp luật (ngày 01-7-2011), việc kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu
lực pháp luật trước ngày này thì thủ tục áp dụng theo quy định của Luật tố tụng
hành chính.
2. Đối với những vụ
án hành chính đã được Toà án giải quyết theo đúng trình tự, thủ tục của pháp luật
tố tụng hành chính tại thời điểm giải quyết và bản án, quyết định của Toà án đã
có hiệu lực pháp luật trước ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực (ngày
01-7-2011) thì không căn cứ vào quy định của Luật tố tụng hành chính để kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Điều 3. Áp dụng pháp luật tố tụng hành chính để xét xử vụ án hành chính
Kể từ ngày Luật tố
tụng hành chính có hiệu lực pháp luật (ngày 01-7-2011), việc xét xử sơ thẩm đối
với những vụ án hành chính đã được Toà án thụ lý trước ngày Luật tố tụng hành
chính có hiệu lực; việc xét xử phúc thẩm những vụ án hành chính đã được Tòa án
xét xử sơ thẩm trước ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực mà có kháng cáo,
kháng nghị; việc xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm những bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật mà bị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trước ngày Luật tố
tụng hành chính có hiệu lực thì đều được thực hiện theo quy định tương ứng của
Luật tố tụng hành chính.
Điều 4. Điều kiện thụ
lý khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai quy
định tại Điều 3 NQ số 56
1. Toà án chỉ thụ
lý giải quyết khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất
đai (nội dung quản lý nhà nước về đất đai được quy định tại khoản
2 Điều 6 của Luật đất đai năm 2003) quy định tại Điều 3 NQ số
56 khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Việc khởi kiện
được thực hiện trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu
lực (ngày 01-7-2011);
b) Người khởi kiện
đã thực hiện việc khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương từ ngày 01-6-2006 đến ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực (ngày
01-7-2011) mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng họ
không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại và họ chưa khởi kiện vụ án hành
chính tại Toà án nhân dân hoặc đã khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án nhân
dân, nhưng Toà án đã trả lại đơn khởi kiện hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án
hành chính theo quy định tại khoản 3 Điều 41 của Pháp lệnh thủ
tục giải quyết các vụ án hành chính.
2. Đối với trường
hợp Tòa án đã ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án nêu tại điểm b khoản
1 Điều này và đương sự có đơn khởi kiện thì Tòa án căn cứ vào Điều
3 NQ số 56 để thụ lý giải quyết.
3. Khi thụ lý giải
quyết các khiếu kiện quy định tại Điều 3 NQ số 56 và được hướng
dẫn tại khoản 1 Điều này, ngoài việc yêu cầu đương sự cung cấp chứng cứ theo
quy định tại Điều 72 của Luật tố tụng hành chính thì phải
yêu cầu người khởi kiện cung cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho việc họ
đã thực hiện việc khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương từ ngày 01-6-2006 đến ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực. Trường hợp
người khởi kiện không thể cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho việc
họ đã thực hiện việc khiếu nại thì Toà án yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại cung cấp cho mình tài liệu, chứng cứ về việc người khởi kiện đã
thực hiện việc khiếu nại và hồ sơ giải quyết khiếu nại (nếu có). Trường hợp cơ
quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thông báo là người khởi kiện chưa thực
hiện việc khiếu nại thì Toà án không thụ lý giải quyết.
4. Việc giải quyết
các khiếu kiện theo quy định tại Điều 3 NQ số 56 và được hướng
dẫn tại khoản 1 Điều này thực hiện theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
Điều 5. Hiệu lực thi hành
Nghị quyết này đã
được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thông qua ngày 30 tháng 6 năm
2011 và có hiệu lực thi hành sau 45 ngày, kể từ ngày ký ban hành.
Nơi nhận:
- Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
- Uỷ ban pháp luật của Quốc hội;
- Uỷ ban tư pháp của Quốc hội;
- Văn phòng Trung ương Đảng;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Văn phòng Chính phủ 02 bản (để đăng Công báo);
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Bộ Tư pháp;
- Thanh tra Chính phủ;
- Bộ Tài nguyên và Môi trường;
- Toà án nhân dân các cấp;
- Các Thẩm phán và các đơn vị TANDTC;
- Lưu: VP, Viện KHXX (TANDTC).
|
TM.
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN
CHÁNH ÁN
Trương Hoà Bình
|