THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
114-TTG-NN
|
Hà
Nội, ngày 10 tháng 12 năm 1964
|
THÔNG TƯ
QUY ĐỊNH VÀ HƯỚNG DẪN BẢO VỆ NGUỒN LỢI THỦY SẢN Ở VÙNG NƯỚC
NGỌT, NƯỚC LỢ VÀ NƯỚC MẶN VEN BỜ BIỂN
Nguồn lợi thủy sản của nước ta lớn
và rất phong phú, nhiều loại có giá trị kinh tế và khoa học cao. Lâu nay, các
nguồn lợi thủy sản không được bảo vệ và khai thác một cách hợp lý, tình trạng
đánh bắt bừa bãi như dùng các chất độc, chất nổ, bắt tất cả các loại còn nhỏ hoặc
đang mang trứng, đánh bắt trong mùa sinh sản…đã gây nhiều thiệt hại đến trữ lượng
thủy sản.
Để bảo vệ nguồn lợi thủy sản và khuyến khích phong trào nuôi thủy sản ngày càng
phát triển.
Nay quy định và hướng dẫn một số vấn đề để bảo vệ nguồn lợi thủy sản ở vùng nước
ngọt, nước lợ và nước mặn ven bờ biển nhằm:
a) Bảo vệ các loài thủy sản ở một số khu
vực công cộng, tạo điều kiện cho chúng phát triển nhanh và nhiều hơn;
b) Hướng dẫn cách đánh bắt hợp lý, ngăn cấm
cách đánh bắt làm thiệt hại hàng loạt giống thủy sản và có ảnh hưởng đến sức khỏe
của nhân dân;
c) Hướng dẫn phong trào nuôi thủy sản, cải
tiến kỹ thuật nuôi và đánh bắt làm cho năng suất ngày một tăng, để đáp ứng nhu
cầu cải thiện đời sống nhân dân.
I. BẢO VỆ CÁC NGUỒN LỢI THỦY SẢN
1. Cấm dùng các loại chất nổ để đánh bắt
các loại thủy sản. Các cơ quan, xí nghiệp cần dùng chất nổ để xây dựng các công
trình hoặc làm các việc cần thiết khác ở các mặt nước, thì cần bàn bạc với Tổng
cục Thủy sản (nếu tiến hành trên các sông Hồng, sông Mã, sông Lam) hoặc với Ủy
ban hành chính tỉnh (nếu tiến hành ở các sông, suối, hồ chứa khác ở địa phương)
nhằm hạn chế sự thiệt hại về nguồn lợi thủy sản.
2. Cấm dùng các chất độc như là cơi, lá
và quả thàn mát, quả sú vẹt, khô dầu sổ, vôi, thuốc DDT, thuốc 666 v .v… (ở miền
núi gọi là ruốc) để đầu độc cá trên các sông, suối, hồ chứa nước.
3. Các nhà máy; xí nghiệp, hầm mỏ cùng với
Tổng cục Thủy sản nghiên cứu xử lý hợp lý các nguồn nước thải, hạn chế, tiến tới
không cho nước thải có chất độc chảy thẳng ra sông, hồ nuôi cá.
4. Cấm đánh bắt các ở các bãi cá đẻ trong
mùa sinh sản. Các bãi cá đẻ do Ủy ban hành chính khu, tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương xác định và niêm yết cho nhân dân biết. Thời gian cấm đối với từng
loại thủy sản như sau:
a) Các bãi cá mè, trôi, trắm, vền, cắm từ
15 tháng 4 đến 30 tháng 6 dương lịch;
b) Các bãi cá chép, bống cấm từ 20 tháng
3 đến 20 tháng 5 (vụ xuân) và từ 1 tháng 9 đến 30 tháng 10 (vụ thu) dương lịch;
c) Bãi cá chiên cấm từ 1 tháng 3 đến 30
tháng 4 dương lịch.
d) Để bảo vệ nguồn cá bột, cấm bắt cá mè ở
hệ thống sông Hồng từ 15 tháng 3 đến 15 tháng 5 dương lịch.
5. Cấm bắt nhặt các loại đặc sản có giá
trị kinh tế cao như hầu, hải sâm, đồi mồi, trai ngọc, bào ngư ở các bãi đá quản
lý. Tổng cục Thủy sản xác định các bãi đặc sản này và cùng với Ủy ban hành
chính tỉnh quy định khuu vực và thời gian cấm.
6. Cấm đánh bắt cá con (nhân dân gọi là
cá trụi) ở các vùng nước thông ra sông và ở các vùng bãi ngập nước ven sông đã
được địa phương quy định. Khi nước cạn, cá không sống bình thường, sau khi được
Ủy ban hành chính huyện đồng ý, thì Ủy ban hành chính xã được tổ chức nhân dân ở
gần đó đánh bắt, số cá con không thể giữ lại làm giống được thì mới đem ăn.
7. Cấm đánh bắt thủy sản ở khu vực dự trữ.
Ủy ban hành chính khu, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương theo sự hướng dẫn
của Tổng cục Thủy sản, có thể quy định một số khu vực cá hoặc các loài đặc sản
khác sống tập trung quanh năm, thành các khu vực dự trữ, coi đó là vùng dự trữ
giống và điều hòa sản lượng chung cho cả vùng.
8. Để phục vụ cho yêu cầu nghiên cứu khoa
học, Tổng cục Thủy sản được tổ chức hoặc cho phép tổ chức đánh bắt một số cá và
đặc sản ở các nơi đã quy định cấm.
II. QUẢN LÝ HƯỚNG DẪN NUÔI VÀ KHAI THÁC CÁC NGUỒN LỢI THỦY
SẢN
Nghề nuôi thủy sản là một nghề mới,
có hiệu quả kinh tế lớn nhưng tổ chức còn yếu, việc quản lý không tốt, việc áp
dụng khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm tiên tiến vào sản xuất chưa được nhiều,
công cụ đánh bắt còn nặng về thủ công, thô sơ. Nghề nuôi thủy sản và đánh cá
sông cần được tăng cường lãnh đạo, quản lý và chú trọng giúp đỡ, khuyến khích cụ
thể về các mặt sau đây:
1. Tổng cục Thủy sản và Ủy ban hành chính
các khu tỉnh, thành có nhiệm vụ tổ chức, quản lý và hướng dẫn việc vớt cá bột,
đánh cá sông để sản xuất giống và khai thác hợp lý để bảo vệ trữ lượng đáp ứng
nhu cầu ngày càng nhiều của nhân dân.
2. Ủy ban hành chính các cấp hướng dẫn
các hợp tác xã sử dụng hợp lý nước ao, hồ, ruộng. Tổ chức và củng cố các tổ, đội
nuôi thủy sản, chú trọng cung cấp, vật tư, cho vay vốn, tạo điều kiện cho nghề
nuôi thủy sản nuôi hết diện tích, đồng thời vận động, khuyến khích nhân dân
nuôi thủy sản không ăn cá và các loại đặc sản nhỏ còn có thể giữ lại làm giống.
3. Các quốc doanh nuôi thủy sản, đến khi
thu hoạch, nói chung không được đánh bắt thủy sản đang trong thời kỳ sinh trưởng
nhanh. Tổng cục thủy sản sẽ quy định cụ thể tiêu chuẩn cho từng giống cá được
đánh bắt, áp dụng cho các quốc doanh nuôi thủy sản.
4. Các cơ quan thủy lợi và thủy sản phải
kết hợp chặt chẽ với nhau sẽ sử dụng các hệ thống thủy nông, các hồ chứa vào việc
nuôi thủy sản để nâng cao năng suất tổng hợp của công trình. Hai bên đều có nhiệm
vụ tìm mọi biện pháp bảo vệ thiết bị ở các công trình thủy lợi đã nuôi thủy sản.
5. Ủy ban hành chính các cấp hướng dẫn
cho nhân dân cải tiến và hạn chế những công cụ đánh bắt thô sơ có hại đến nguồn
giống thủy sản như làm xe, ben, chắn bay, cắm đăng thành từng vùng ở các bãi bồi
trên sông và trong các suối.
6. Tổng cục Thủy sản giúp đỡ dân đánh cá
cải tiến kỹ thuật, để bắt cá to, tránh bắt ăn thịt các loại cá giống.
7. Mặt nước thuộc tỉnh nào do tỉnh ấy quản
lý, tổ chức và hướng dẫn việc khai thác. Những người ở nơi khác đến đánh bắt phải
được Ủy ban hành chính tỉnh địa phương có cá cấp giấy phép.
III. TỔ CHỨC CHỈ ĐẠO VÀ THỰC HIỆN
Thủ tướng Chính phủ giao trách
nhiệm cho Tổng cục Thủy sản giải thích, hướng dẫn và theo dõi việc thi hành bản
thông tư này. Ở các địa phương Ủy ban hành chính các cấp có trách nhiệm chủ trì
kết hợp với các ngành, các đoàn thể tổ chức hướng dẫn nhân dân thực hiện các chế
độ bảo vệ nguồn lợi thủy sản của Nhà nước.
Mọi người công dân đều có nhiệm
vụ tham gia thực hiện bảo vệ nguồn lợi thủy sản và góp phần làm cho nguồn lợi
đó mỗi ngày một nhiều thêm. Những cá nhân hoặc tập thể có thành tích bảo vệ và
phát triển nguồn lợi thủy sản, tùy theo thành tích đã đạt, được Ủy ban hành
chính huyện, tỉnh, Tổng cục Thủy sản hoặc Chính phủ khen thưởng. Những gương tốt
về bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, Ủy ban hành chính xã và hợp tác xã
xã cần chú trọng tuyên dương và xét kịp thời đề nghị lên cấp trên khen thưởng.
Cần giáo dục sâu rộng nội dung
thông tư này để các cơ quan Nhà nước và nhân dân chấp hành nghiêm chỉnh và tùy
theo trường hợp cần có kỷ luật thích hợp đối với những cơ quan và những kẻ làm
trái với thông tư này.
Thông tư này thi hành bắt đầu từ
ngày 01 tháng 01 năm 1965.
|
KT.THỦ TƯỚNG
CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG
Phạm Hùng
|