QUỐC HỘI
---------
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh
phúc
---------------
|
Số: 35-L/CTN
|
Hà Nội, ngày 23
tháng 6 năm 1994
|
BỘ
LUẬT LAO ĐỘNG
CỦA
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
LỜI NÓI ĐẦU
Lao động là hoạt động quan trọng
nhất của con người, tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội.
Lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát
triển của đất nước.
Pháp luật lao động quy định quyền
và nghĩa vụ của người lao động và của người sử dụng lao động, các tiêu chuẩn
lao động, các nguyên tắc sử dụng và quản lý lao động, góp phần thúc đẩy sản xuất,
vì vậy có vị trí quan trọng trong đời sống xã hội và trong hệ thống pháp luật của
quốc gia.
Kế thừa và phát triển pháp luật
lao động của nước ta từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, Bộ Luật Lao động
thể chế hoá đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam và cụ thể hoá các quy
định của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 về lao động,
về sử dụng và quản lý lao động.
Bộ Luật Lao động
bảo vệ quyền làm việc, lợi ích và các quyền khác của người lao động, đồng thời
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động, tạo Điều kiện cho
mối quan hệ lao động được hài hoà và ổn định, góp phần phát huy trí sáng tạo và
tài năng của người lao động trí óc và lao động chân tay, của người quản lý lao
động, nhằm đạt năng suất, chất lượng và tiến bộ xã hội trong lao động, sản xuất,
dịch vụ, hiệu quả trong sử dụng và quản lý lao động, góp phần công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh.
Chương 1:
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1.
Bộ Luật Lao động Điều chỉnh quan hệ lao động giữa người lao động làm công
ăn lương với người sử dụng lao động và các quan hệ xã hội liên quan trực tiếp với
quan hệ lao động.
Điều 2.
Bộ Luật Lao động được áp dụng đối
với mọi người lao động, mọi tổ chức, cá nhân sử dụng lao động theo hợp đồng lao
động, thuộc các thành phần kinh tế, các hình thức sở hữu.
Bộ luật này cũng được áp dụng đối
với người học nghề, người giúp việc gia đình và một số loại lao động khác được
quy định tại Bộ luật này.
Điều 3.
Công dân Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam, tại các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc quốc tế đóng trên lãnh
thổ Việt Nam và người nước ngoài làm việc trong các doanh nghiệp, tổ chức và
cho cá nhân Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam đều thuộc phạm vi áp dụng của Bộ luật
này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp Điều ước quốc tế
mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
Điều 4.
Chế độ lao động đối với công chức, viên chức Nhà nước, người giữ các chức vụ
được bầu, cử hoặc bổ nhiệm, người thuộc lực lượng quân đội nhân dân, công an
nhân dân, người thuộc các đoàn thể nhân dân, các tổ chức chính trị, xã hội khác
và xã viên hợp tác xã do các văn bản pháp luật khác quy định nhưng tuỳ từng đối
tượng mà được áp dụng một số quy định trong Bộ luật này.
Điều 5.
1- Mọi người đều có quyền làm việc,
tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp,
không bị phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng,
tôn giáo.
2- Cấm ngược đãi người lao động;
cấm cưỡng bức người lao động dưới bất kỳ hình thức nào.
3- Mọi hoạt động tạo ra việc
làm, tự tạo việc làm, dạy nghề và học nghề để có việc làm, mọi hoạt động sản xuất,
kinh doanh thu hút nhiều lao động đều được Nhà nước khuyến khích, tạo Điều kiện
thuận lợi hoặc giúp đỡ.
Điều 6.
Người lao động là người ít nhất
đủ 15 tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động.
Người sử dụng lao động là doanh
nghiệp, cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân, nếu là cá nhân thì ít nhất phải đủ 18 tuổi,
có thuê mướn, sử dụng và trả công lao động.
Điều 7.
1- Người lao động được trả lương
trên cơ sở thoả thuận với người sử dụng lao động nhưng không thấp hơn mức lương
tối thiểu do Nhà nước quy định và theo năng suất, chất lượng, hiệu quả công việc;
được bảo hộ lao động, làm việc trong những Điều kiện bảo đảm về an toàn lao động,
vệ sinh lao động; nghỉ theo chế độ, nghỉ hàng năm có lương và được bảo hiểm xã
hội theo quy định của pháp luật. Nhà nước quy định chế độ lao động và chính
sách xã hội nhằm bảo vệ lao động nữ và các loại lao động có đặc Điểm riêng.
2- Người lao động có quyền thành
lập, gia nhập, hoạt động công đoàn theo Luật công đoàn để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình; được hưởng phúc lợi tập thể, tham gia quản lý doanh nghiệp
theo nội quy của doanh nghiệp và quy định của pháp luật.
3- Người lao động có nghĩa vụ thực
hiện hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể, chấp hành kỷ luật lao động,
nội quy lao động và tuân theo sự Điều hành hợp pháp của người sử dụng lao động.
4- Người lao động có quyền đình
công theo quy định của pháp luật.
Điều 8.
1- Người sử dụng lao động có quyền
tuyển chọn lao động, bố trí, Điều hành lao động theo nhu cầu sản xuất, kinh
doanh; có quyền khen thưởng và xử lý các vi phạm kỷ luật lao động theo quy định
của pháp luật lao động.
2- Người sử dụng lao động có quyền
cử đại diện để thương lượng, ký kết thoả ước lao động tập thể trong doanh nghiệp
hoặc thoả ước lao động tập thể ngành; có trách nhiệm cộng tác với công đoàn bàn
bạc các vấn đề về quan hệ lao động, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của
người lao động.
3- Người sử dụng lao động có
nghĩa vụ thực hiện hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể và những thoả
thuận khác với người lao động, tôn trọng danh dự, nhân phẩm và đối xử đúng đắn
với người lao động.
Điều 9.
Quan hệ lao động giữa người lao
động và người sử dụng lao động được xác lập và tiến hành qua thương lượng, thoả
thuận theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích
hợp pháp của nhau, thực hiện đầy đủ những Điều đã cam kết.
Nhà nước khuyến khích những thoả
thuận bảo đảm cho người lao động có những Điều kiện thuận lợi hơn so với những
quy định của pháp luật lao động.
Người lao động và người sử dụng
lao động có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp
lao động. Nhà nước khuyến khích việc giải quyết các tranh chấp lao động bằng
hoà giải và trọng tài.
Điều 10.
1- Nhà nước thống nhất quản lý
nguồn nhân lực và quản lý lao động bằng pháp luật và có chính sách để phát triển,
phân bố nguồn nhân lực, phát triển đa dạng các hình thức sử dụng lao động và dịch vụ việc làm.
2- Nhà nước hướng dẫn người lao
động và người sử dụng lao động xây dựng mối quan hệ lao động hài hoà và ổn định,
cùng nhau hợp tác vì sự phát triển của doanh nghiệp.
Điều 11.
Nhà nước khuyến khích việc quản
lý lao động dân chủ, công bằng, văn minh trong doanh nghiệp và mọi biện pháp, kể
cả việc trích thưởng từ lợi nhuận của doanh nghiệp, làm cho người lao động quan
tâm đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, nhằm đạt hiệu quả cao trong quản
lý lao động, sản xuất của doanh nghiệp.
Nhà nước có chính sách để người
lao động mua cổ phần, góp vốn phát triển doanh nghiệp.
Điều 12.
Công đoàn tham gia cùng với cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội
chăm lo và bảo vệ quyền lợi của người lao động; tham gia kiểm tra, giám sát việc
thi hành các quy định của Pháp Luật Lao động.
Chương 2:
VIỆC LÀM
Điều 13.
Mọi hoạt động lao động tạo ra
nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm.
Giải quyết việc làm, bảo đảm cho
mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà
nước, của các doanh nghiệp và toàn xã hội.
Điều 14.
1- Nhà nước định
chỉ tiêu tạo việc làm mới trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và
hàng năm, tạo Điều kiện cần thiết, hỗ trợ tài chính, cho vay vốn hoặc giảm, miễn
thuế và áp dụng các biện pháp khuyến khích khác để người có khả năng lao động tự
giải quyết việc làm, để các tổ chức, đơn vị và cá nhân thuộc mọi thành phần
kinh tế phát triển nhiều nghề mới nhằm tạo việc làm cho nhiều người lao động.
2- Nhà nước
có chính sách ưu đãi về giải quyết việc làm để thu hút và sử dụng lao động là
người dân tộc thiểu số.
3- Nhà nước
có chính sách khuyến khích, tạo Điều kiện thuận lợi cho các tổ chức và cá nhân
trong nước và nước ngoài, bao gồm cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư
phát triển sản xuất, kinh doanh, để giải quyết việc làm cho người lao động.
Điều 15.
1- Chính phủ
lập chương trình quốc gia về việc làm, dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội,
di dân phát triển vùng kinh tế mới gắn với chương trình giải quyết việc làm; lập
quỹ quốc gia về việc làm từ ngân sách Nhà nước và các nguồn khác, phát triển hệ
thống tổ chức dịch vụ việc làm. Hàng năm Chính phủ trình Quốc hội quyết định chương trình
và quỹ quốc gia về việc làm.
2- Uỷ ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lập chương trình và quỹ giải quyết
việc làm của địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định.
3- Các cơ quan Nhà nước, các tổ
chức kinh tế, các đoàn thể nhân dân và tổ chức xã hội trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình có trách nhiệm tham gia thực hiện các chương trình và quỹ giải
quyết việc làm.
Điều 16.
1- Người lao
động có quyền làm việc cho bất kỳ người sử dụng lao động nào và ở bất kỳ nơi
nào mà pháp luật không cấm. Người cần tìm việc làm có quyền trực tiếp liên hệ để
tìm việc hoặc đăng ký tại các tổ chức dịch vụ việc
làm để tìm việc tuỳ theo nguyện vọng, khả năng,
trình độ nghề nghiệp và sức khoẻ của mình.
2- Người sử dụng
lao động có quyền trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức dịch vụ việc làm để tuyển chọn lao
động, có quyền tăng giảm lao động phù hợp với nhu cầu sản xuất, kinh doanh theo
quy định của pháp luật.
Điều 17.
1- Trong trường
hợp do thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ mà người lao động đã làm việc thường
xuyên trong doanh nghiệp từ một năm trở lên bị mất việc làm, thì người sử dụng lao động có trách nhiệm
đào tạo lại họ để tiếp tục sử dụng vào những chỗ làm việc mới; nếu không thể giải
quyết được việc làm mới, phải cho người lao động thôi việc thì phải trả trợ cấp
mất việc làm, cứ mỗi năm làm việc trả một tháng lương, nhưng thấp nhất cũng bằng
hai tháng lương.
2- Khi cần
cho nhiều người thôi việc theo Khoản 1 Điều này, người sử dụng lao động phải
công bố danh sách, căn cứ vào nhu cầu của doanh nghiệp và thâm niên làm việc tại
doanh nghiệp, tay nghề, hoàn cảnh gia đình và những yếu tố khác của từng người
để lần lượt cho thôi việc, sau khi đã trao đổi, nhất trí với Ban chấp hành công
đoàn cơ sở trong doanh nghiệp theo thủ tục quy định tại Khoản
2 Điều 38 của Bộ luật này. Việc cho thôi việc chỉ
được tiến hành sau khi đã báo cho cơ quan lao động
địa phương biết.
3- Các doanh
nghiệp phải lập quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm theo quy định của Chính phủ
để kịp thời trợ cấp cho người lao động trong doanh nghiệp bị mất việc làm.
4- Chính phủ
có chính sách và biện pháp tổ chức dạy nghề, đào tạo lại, hướng dẫn sản xuất
kinh doanh, cho vay vốn với lãi suất thấp từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm,
tạo Điều kiện để người lao động tìm việc làm hoặc tự tạo việc làm; hỗ trợ về
tài chính cho những địa phương và ngành có nhiều người thiếu việc làm hoặc mất
việc làm do thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ.
Điều 18.
1- Tổ chức
dịch vụ việc làm được thành lập theo quy định của pháp luật có nhiệm vụ tư vấn,
giới thiệu, cung ứng và giúp tuyển lao động, thu thập và cung ứng thông tin về
thị trường lao động. Việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
chỉ được tiến hành sau khi có giấy phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
2- Tổ chức dịch
vụ việc làm được thu lệ phí, được Nhà nước xét giảm, miễn thuế và được tổ chức
dạy nghề theo các quy định tại Chương III của Bộ luật này.
3- Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội thống nhất quản lý Nhà nước đối với các tổ chức dịch vụ
việc làm trong cả nước.
Điều 19.
Cấm mọi hành vi dụ dỗ, hứa hẹn
và quảng cáo gian dối để lừa gạt người lao động hoặc lợi dụng dịch vụ việc làm
để thực hiện những hành vi trái pháp luật.
Chương 3:
HỌC NGHỀ
Điều 20.
1- Mọi người
có quyền tự do lựa chọn nghề và nơi học nghề phù hợp với nhu cầu việc làm của
mình.
2- Doanh nghiệp,
tổ chức và cá nhân có đủ Điều kiện theo quy định của pháp luật được mở cơ sở dạy
nghề.
Chính phủ ban
hành quy định về việc mở các cơ sở dạy nghề.
Điều 21.
1- Cơ sở dạy
nghề phải đăng ký, hoạt động theo quy định về dạy nghề, được thu học phí và phải
nộp thuế theo quy định của pháp luật.
2- Cơ sở dạy
nghề cho thương binh, bệnh binh, người tàn tật, người dân tộc thiểu số hoặc ở
những nơi có nhiều người thiếu việc làm, mất việc làm, các cơ sở dạy nghề truyền
thống, kèm cặp tại xưởng, tại nhà được xét giảm, miễn thuế.
Điều 22.
Người học nghề ở cơ sở dạy nghề ít nhất phải đủ 13 tuổi, trừ một số nghề do
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định và phải có đủ sức khoẻ phù hợp với
yêu cầu của nghề theo học.
Điều 23.
1- Doanh nghiệp
có trách nhiệm tổ chức nâng cao trình độ nghề nghiệp cho người lao động và đào
tạo lại trước khi chuyển người lao động sang làm nghề khác trong doanh nghiệp.
2- Doanh nghiệp
tuyển người vào học nghề, tập nghề để làm việc tại doanh nghiệp theo thời hạn
cam kết trong hợp đồng học nghề, tập nghề thì không phải đăng ký và không được
thu học phí. Thời gian học nghề, tập nghề được tính vào thâm niên làm việc tại
doanh nghiệp. Trong thời gian học nghề, tập nghề, nếu trực tiếp hoặc tham gia
làm ra sản phẩm cho doanh nghiệp thì người học nghề, tập nghề được trả công
theo mức do hai bên thoả thuận.
Điều 24.
1- Việc học nghề
phải có hợp đồng học nghề bằng văn bản hoặc bằng miệng giữa người học nghề với
người dạy nghề hoặc đại diện cơ sở dạy nghề. Nếu ký kết hợp đồng học nghề bằng
văn bản, thì phải làm thành hai bản, mỗi bên giữ một bản.
2- Nội dung
chủ yếu của hợp đồng học nghề phải bao gồm Mục tiêu đào tạo, địa Điểm học, mức
học phí, thời hạn học, mức bồi thường khi vi phạm hợp đồng.
3- Trong trường
hợp doanh nghiệp nhận người vào học nghề để sử dụng thì hợp đồng học nghề phải
có cam kết về thời hạn làm việc cho doanh nghiệp và phải bảo đảm ký kết hợp đồng
lao động sau khi học xong. Người học nghề sau khi học xong, nếu không làm việc
theo cam kết thì phải bồi thường phí dạy nghề.
4- Trong trường
hợp hợp đồng học nghề chấm dứt trước thời hạn vì lý do bất khả kháng thì không
phải bồi thường.
Điều 25.
Nghiêm cấm mọi doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân lợi dụng danh nghĩa dạy nghề,
truyền nghề để trục lợi, bóc lột sức lao động hoặc dụ dỗ, ép buộc người học nghề,
tập nghề vào những hoạt động trái pháp luật.
Chương 4:
HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
Điều 26.
Hợp đồng lao động là sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao
động về việc làm có trả công, Điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên
trong quan hệ lao động.
Điều 27.
1- Hợp đồng
lao động phải được giao kết theo một trong các loại sau đây:
a) Hợp đồng lao động không xác định
thời hạn;
b) Hợp đồng
lao động xác định thời hạn từ một năm đến ba năm;
c) Hợp đồng lao động theo mùa vụ
hoặc theo một công việc nhất định mà thời hạn dưới một năm.
2- Không được
giao kết hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định mà thời
hạn dưới một năm để làm những công việc có tính chất thường xuyên từ một năm trở
lên, trừ trường hợp phải tạm thời thay thế người lao động đi làm nghĩa vụ quân
sự, nghỉ theo chế độ thai sản hoặc nghỉ việc có tính chất tạm thời khác.
Điều 28.
Hợp đồng lao động được ký kết bằng văn bản và phải được làm thành hai bản,
mỗi bên giữ một bản. Đối với một số công việc có tính chất tạm thời mà thời hạn
dưới ba tháng hoặc đối với lao động giúp việc gia đình thì các bên có thể giao
kết bằng miệng. Trong trường hợp giao kết bằng miệng, thì các bên đương nhiên
phải tuân theo các quy định của pháp luật lao động.
Điều 29.
1- Hợp đồng
lao động phải có những nội dung chủ yếu sau đây: công việc phải làm, thời giờ
làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tiền lương, địa Điểm làm việc, thời hạn hợp đồng,
Điều kiện về an toàn lao động, vệ sinh lao động và bảo hiểm xã hội đối với người
lao động.
2- Trong
trường hợp một phần hoặc toàn bộ nội dung của hợp đồng lao động quy định quyền
lợi của người lao động thấp hơn mức được quy định trong pháp luật lao động, thoả
ước lao động tập thể, nội quy lao động đang áp dụng trong doanh nghiệp hoặc hạn
chế các quyền khác của người lao động thì một phần hoặc toàn bộ nội dung đó phải
được sửa đổi, bổ sung.
3- Trong trường
hợp phát hiện hợp đồng lao động có nội dung nói tại Khoản 2 Điều này, thì Thanh
tra lao động hướng dẫn cho các bên sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Nếu các bên
không sửa đổi, bổ sung thì Thanh tra lao động có quyền buộc huỷ bỏ các nội dung
đó.
Điều 30.
1- Hợp đồng lao động được giao kết
trực tiếp giữa người lao động với người sử dụng lao động.
2- Hợp đồng lao động có thể được
ký kết giữa người sử dụng lao động với người được uỷ quyền hợp pháp thay mặt
cho nhóm người lao động; trong trường hợp này hợp đồng có hiệu lực như ký kết với
từng người.
3- Người lao động có thể giao kết
một hoặc nhiều hợp đồng lao động, với một hoặc nhiều người sử dụng lao động,
nhưng phải bảo đảm thực hiện đầy đủ các hợp đồng đã giao kết.
4- Công việc theo hợp đồng lao động
phải do người giao kết thực hiện, không được giao cho người khác, nếu không có
sự đồng ý của người sử dụng lao động.
Điều 31.
Trong trường hợp sáp nhập, phân chia doanh nghiệp,
chuyển quyền sở hữu, quyền quản lý hoặc quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp
thì người sử dụng lao động kế tiếp phải chịu trách nhiệm tiếp tục thực hiện hợp
đồng lao động với người lao động cho tới khi hai bên thoả thuận sửa đổi, chấm dứt
hợp đồng lao động hoặc giao kết hợp đồng lao động mới.
Điều 32.
Người sử dụng lao động và người
lao động thoả thuận về việc làm thử, thời gian thử việc, về quyền, nghĩa vụ của
hai bên. Tiền lương của người lao động trong thời gian thử việc ít nhất phải bằng
70% mức lương cấp bậc của công việc đó. Thời gian thử việc không được quá 60
ngày đối với lao động chuyên môn kỹ thuật cao và không được quá 30 ngày đối với
lao động khác.
Trong thời gian thử việc, mỗi
bên có quyền huỷ bỏ thoả thuận làm thử mà không cần báo trước và không phải bồi
thường nếu việc làm thử không đạt yêu cầu mà hai bên đã thoả thuận. Khi việc
làm thử đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động phải nhận người lao động vào làm
việc chính thức như đã thoả thuận.
Điều 33.
Hợp đồng
lao động có hiệu lực từ ngày giao kết hoặc từ ngày do hai bên thoả thuận.
Trong quá
trình thực hiện hợp đồng lao động, nếu bên nào có yêu cầu thay đổi nội dung hợp
đồng thì phải báo cho bên kia biết trước ít nhất ba ngày. Việc thay đổi nội
dung hợp đồng lao động có thể được tiến hành bằng cách sửa đổi, bổ sung hợp đồng
lao động đã giao kết hoặc giao kết hợp đồng lao động mới.
Điều 34.
1- Khi gặp khó khăn đột xuất hoặc
do nhu cầu sản xuất, kinh doanh, người sử dụng lao động được quyền tạm thời
chuyển người lao động làm công việc khác trái nghề, nhưng không được quá 60
ngày trong một năm.
2- Khi tạm thời chuyển người lao
động làm việc khác trái nghề, người sử dụng lao động phải báo cho người lao động
biết trước ít nhất ba ngày, phải báo rõ thời hạn làm tạm thời và bố trí công việc
phù hợp với sức khoẻ và giới tính của người lao động.
3- Người lao động tạm thời làm
công việc khác theo quy định tại Khoản 1 Điều này, được trả lương theo công việc
mới; nếu tiền lương của công việc mới thấp hơn tiền lương cũ thì được giữ
nguyên mức tiền lương cũ trong thời hạn 30 ngày làm việc. Tiền lương theo công
việc mới ít nhất phải bằng 70% mức tiền lương cũ nhưng không được thấp hơn mức
lương tối thiểu do Nhà nước quy định.
Điều 35.
1- Hợp đồng
lao động được tạm hoãn thực hiện trong những trường hợp sau đây:
a) Người lao động đi làm nghĩa vụ
quân sự hoặc các nghĩa vụ công dân khác do pháp luật quy định;
b) Người
lao động bị tạm giữ, tạm giam;
c) Các trường
hợp khác do hai bên thoả thuận.
2- Hết thời
gian tạm hoãn hợp đồng lao động đối với các trường hợp quy định tại Điểm a và Điểm
c Khoản 1 Điều này, người sử dụng lao động phải nhận người lao động trở lại làm
việc.
3- Việc nhận
lại người lao động bị tạm giữ, tạm giam khi hết thời gian tạm hoãn hợp đồng lao
động do Chính phủ quy định.
Điều 36.
Hợp đồng lao động chấm dứt trong
những trường hợp sau đây:
1- Hết hạn hợp đồng;
2- Đã hoàn thành công việc theo
hợp đồng;
3- Hai bên
thoả thuận chấm dứt hợp đồng;
4- Người
lao động bị kết án tù giam hoặc bị cấm làm công việc cũ theo quyết định của Toà
án;
5- Người
lao động chết; mất tích theo tuyên bố của Toà án.
Điều 37.
1- Người
lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn từ một năm đến ba
năm, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định mà thời hạn
dưới một năm có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn trong những
trường hợp sau đây:
a) Không được bố trí theo đúng
công việc, địa Điểm làm việc hoặc không được bảo đảm các Điều kiện làm việc đã
thoả thuận trong hợp đồng;
b) Không được trả công đầy đủ hoặc
trả công không đúng thời hạn theo hợp đồng;
c) Bị ngược
đãi; bị cưỡng bức lao động;
d) Bản
thân hoặc gia đình thật sự có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp
đồng;
đ) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên
trách ở các cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy Nhà nước;
e) Người lao động nữ có thai phải
nghỉ việc theo chỉ định của thầy thuốc.
2- Khi đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Khoản 1 Điều này, người lao
động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước:
a) Đối với các trường hợp quy định
tại các Điểm a, b và c: ít nhất ba ngày;
b) Đối với các trường hợp quy định
tại Điểm d và Điểm đ: ít nhất ba mươi ngày nếu là hợp đồng xác định thời hạn từ
một năm đến ba năm; ít nhất ba ngày nếu là hợp đồng theo mùa vụ hoặc theo một
công việc nhất định mà thời hạn dưới một năm;
c) Đối với trường hợp quy định tại
Điểm e: theo thời hạn quy định tại Điều 112 của Bộ luật này.
3- Người
lao động làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước
ít nhất 45 ngày.
Điều 38.
1- Người
sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường
hợp sau đây:
a) Người lao
động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng;
b) Người lao động bị xử lý kỷ luật
sa thải theo quy định tại Điều 85 của Bộ luật này;
c) Người lao động làm theo hợp đồng
lao động không xác định thời hạn ốm đau đã Điều trị 12 tháng liền, người lao động
làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn ốm đau đã Điều trị sáu tháng liền
và người lao động làm theo hợp đồng lao động dưới một năm ốm đau đã Điều trị
quá nửa thời hạn hợp đồng lao động, mà khả năng lao động chưa hồi phục. Khi sức
khoẻ của người lao động bình phục, thì được xem xét để giao kết tiếp hợp đồng
lao động;
d) Do thiên
tai, hoả hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác mà người sử dụng lao động đã
tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm
việc;
đ) Doanh
nghiệp, cơ quan, tổ chức chấm dứt hoạt động.
2- Trước khi
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo các Điểm a, b và c Khoản 1 Điều này,
người sử dụng lao động phải trao đổi, nhất trí với Ban chấp hành công đoàn cơ sở.
Trong trường hợp không nhất trí, hai bên phải báo cáo với cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền. Sau 30 ngày, kể từ ngày báo cho cơ quan lao động biết, người sử dụng
lao động mới có quyền quyết định và phải chịu trách nhiệm về quyết định của
mình. Trường hợp không nhất trí với quyết định của người sử dụng lao động, Ban
chấp hành công đoàn cơ sở và người lao động có quyền yêu cầu giải quyết tranh
chấp lao động theo trình tự do pháp luật quy định.
3- Khi đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động, trừ trường hợp quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều
này, người sử dụng lao động phải báo cho người lao động biết trước:
a) Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng
lao động không xác định thời hạn;
b) Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng
lao động xác định thời hạn từ một năm đến ba năm;
c) Ít nhất ba ngày đối với hợp đồng
lao động theo mùa vụ, theo một công việc nhất định mà thời hạn dưới một năm.
Điều 39.
Người sử dụng lao động không được
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp sau đây:
1- Người lao động ốm đau hoặc bị
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đang Điều trị, Điều dưỡng theo quyết định của
thầy thuốc, trừ trường hợp quy định tại Điểm c và Điểm đ Khoản 1
Điều 38 của Bộ luật này;
2- Người lao động đang nghỉ hàng
năm, nghỉ về việc riêng và những trường hợp nghỉ khác được người sử dụng lao động
cho phép;
3- Người lao động là nữ trong
các trường hợp quy định tại Khoản 3 Điều 111 của Bộ luật này.
Điều 40.
Mỗi bên có thể từ bỏ việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước khi hết
thời hạn báo trước. Khi hết thời hạn báo trước, mỗi bên đều có quyền chấm dứt hợp
đồng lao động.
Điều 41.
1- Trong
trường hợp người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái
pháp luật thì phải nhận người lao động trở lại làm việc và phải bồi thường một Khoản
tiền tương ứng với tiền lương trong những ngày người lao động không được làm việc.
Trong trường hợp người lao động không muốn trở lại làm việc, thì ngoài Khoản tiền
được bồi thường tương ứng với tiền lương trong những ngày không được làm việc,
người lao động còn được trợ cấp theo quy định tại Khoản 1 Điều 42 của Bộ luật
này.
2- Trong
trường hợp người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật
thì không được trợ cấp thôi việc.
3- Trong trường
hợp người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thì phải bồi thường
phí đào tạo nếu có, theo quy định của Chính phủ.
4- Trong trường hợp đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước, bên vi
phạm phải bồi thường cho bên kia một Khoản tiền tương ứng với tiền lương của
người lao động trong những ngày không báo trước.
Điều 42.
1- Khi chấm dứt
hợp đồng lao động đối với người lao động đã làm việc thường xuyên trong doanh
nghiệp, cơ quan, tổ chức từ một năm trở lên, người sử dụng lao động có trách nhiệm trợ cấp thôi việc, cứ
mỗi năm làm việc là nửa tháng lương, cộng với phụ cấp lương, nếu có.
2- Khi chấm
dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điểm a và Điểm b Khoản
1 Điều 85 của Bộ luật này, người lao động không
được trợ cấp thôi việc.
Điều 43.
Trong thời hạn bảy ngày, kể từ
ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các Khoản
có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên; trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài
nhưng không được quá 30 ngày.
Trong trường hợp doanh nghiệp bị
phá sản thì các Khoản có liên quan đến quyền lợi của người lao động được thanh
toán theo quy định của Luật phá sản doanh nghiệp.
Người sử dụng lao động ghi lý do
chấm dứt hợp đồng lao động vào sổ lao động và có trách nhiệm trả lại sổ cho người
lao động. Ngoài các quy định trong sổ lao động, người sử dụng lao động không được
nhận xét thêm Điều gì trở ngại cho người lao động tìm việc làm mới.
Chương 5:
THOẢ ƯỚC LAO ĐỘNG TẬP THỂ
Điều 44.
1- Thoả ước lao động tập thể
(sau đây gọi tắt là thoả ước tập thể) là văn bản thoả thuận giữa tập thể lao động
và người sử dụng lao động về các Điều kiện lao động và sử dụng lao động, quyền
lợi và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ lao động.
Thoả ước tập thể do đại diện của
tập thể lao động và người sử dụng lao động thương lượng và ký kết theo nguyên tắc
tự nguyện, bình đẳng và công khai.
2- Nội dung thoả ước tập thể
không được trái với các quy định của pháp luật lao động và pháp luật khác.
Nhà nước khuyến khích việc ký kết
thoả ước tập thể với những quy định có lợi hơn cho người lao động so với quy định
của pháp luật lao động.
Điều 45.
1- Đại diện
thương lượng thoả ước tập thể của hai bên gồm:
a) Bên tập thể lao động là Ban chấp
hành công đoàn cơ sở hoặc tổ chức công đoàn lâm thời;
b) Bên người sử dụng lao động là
Giám đốc doanh nghiệp hoặc người được uỷ quyền theo Điều lệ tổ chức doanh nghiệp
hoặc có giấy uỷ quyền của Giám đốc doanh nghiệp.
Số lượng đại diện thương lượng
thoả ước tập thể của các bên do hai bên thoả thuận nhưng phải ngang nhau.
2- Đại diện ký kết của bên tập
thể lao động là Chủ tịch Ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc người có giấy uỷ
quyền của Ban chấp hành công đoàn. Đại diện ký kết của bên người sử dụng lao động
là Giám đốc doanh nghiệp hoặc người có giấy uỷ quyền của Giám đốc doanh nghiệp.
3- Việc ký kết thoả ước tập thể
chỉ được tiến hành khi có trên 50% số người của tập thể lao động trong doanh
nghiệp tán thành nội dung thoả ước đã thương lượng.
Điều 46.
1- Mỗi bên
đều có quyền đề xuất yêu cầu ký kết và nội dung thoả ước tập thể. Khi nhận được
yêu cầu, bên nhận yêu cầu phải chấp nhận việc thương lượng và phải thoả thuận
thời gian bắt đầu thương lượng chậm nhất 20 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
2- Nội dung
chủ yếu của thoả ước tập thể gồm những cam kết về việc làm và bảo đảm việc làm;
thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp lương;
định mức lao động; an toàn lao động, vệ sinh lao động và bảo hiểm xã hội đối với
người lao động.
Điều 47.
1- Thoả ước
tập thể đã ký kết phải làm thành 4 bản, trong đó:
a) Một bản do người sử dụng lao
động giữ;
b) Một bản do Ban chấp hành công
đoàn cơ sở giữ;
c) Một bản do Ban chấp hành công
đoàn cơ sở gửi công đoàn cấp trên;
d) Một bản do người sử dụng lao
động gửi cơ quan lao động cấp tỉnh chậm nhất là 10 ngày, kể từ ngày ký kết để
đăng ký.
Những doanh nghiệp có cơ sở ở
nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì việc đăng ký thoả ước tập thể
được tiến hành ở cơ quan lao động cấp tỉnh nơi có trụ sở chính của doanh nghiệp.
2- Thoả ước tập thể có hiệu lực
kể từ ngày được cơ quan lao động cấp tỉnh đăng ký. Chậm nhất 15 ngày, kể từ
ngày nhận được bản thoả ước tập thể, cơ quan lao động cấp tỉnh phải thông báo
việc đăng ký. Nếu hết thời hạn trên mà không có thông báo thì thoả ước tập thể
đương nhiên có hiệu lực.
Điều 48.
1- Thoả ước
tập thể bị coi là vô hiệu từng phần khi một hoặc một số Điều Khoản trong thoả ước
chưa được cơ quan lao động cấp tỉnh chấp thuận, các Điều Khoản khác đã được
đăng ký vẫn có hiệu lực thi hành.
2- Thoả ước tập thể thuộc một
trong các trường hợp sau đây thì bị coi là vô hiệu toàn bộ:
a) Toàn bộ nội dung thoả ước
trái pháp luật;
b) Người ký kết thoả ước không
đúng thẩm quyền;
c) Không tiến hành theo đúng
trình tự ký kết;
d) Không đăng ký ở cơ quan lao động
cấp tỉnh.
3- Việc
tuyên bố huỷ bỏ các thoả ước tập thể bị coi là vô hiệu trong trường hợp quy định
tại Điểm a Khoản 2 Điều này, thuộc thẩm quyền của cơ quan lao động cấp tỉnh. Đối
với các thoả ước tập thể trong các trường hợp quy định tại các Điểm b, c và d Khoản
2 Điều này, nếu nội dung đã ký kết có lợi cho người lao động thì cơ quan lao động
cấp tỉnh hướng dẫn để các bên làm lại cho đúng quy định, nếu không làm lại thì
bị cơ quan lao động cấp tỉnh tuyên bố huỷ bỏ.
Điều 49.
1- Khi thoả ước tập thể đã có hiệu
lực, người sử dụng lao động phải thông báo cho mọi người lao động trong doanh
nghiệp biết. Mọi người trong doanh nghiệp, kể cả người vào làm việc sau ngày ký
kết đều có trách nhiệm thực hiện đầy đủ thoả ước tập thể.
2- Trong trường hợp quyền lợi của
người lao động đã thoả thuận trong hợp đồng lao động thấp hơn so với thoả ước tập
thể, thì phải thực hiện những Điều Khoản tương ứng của thoả ước tập thể. Mọi
quy định về lao động trong doanh nghiệp phải được sửa đổi cho phù hợp với thoả
ước tập thể.
3- Khi một bên cho rằng bên kia
thi hành không đầy đủ hoặc vi phạm thoả ước tập thể, thì có quyền yêu cầu thi
hành đúng thoả ước và hai bên phải cùng nhau xem xét giải quyết; nếu không giải
quyết được, mỗi bên đều có quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động tập thể
theo trình tự do pháp luật quy định.
Điều 50.
Thoả ước tập thể được ký kết với
thời hạn từ một năm đến ba năm. Đối với doanh nghiệp lần đầu tiên ký kết thoả ước
tập thể, thì có thể ký kết với thời hạn dưới một năm.
Chỉ sau ba tháng thực hiện, kể từ
ngày có hiệu lực đối với thoả ước tập thể thời hạn dưới một năm và sau sáu
tháng đối với thoả ước tập thể thời hạn từ một năm đến ba năm, các bên mới có
quyền yêu cầu sửa đổi, bổ sung thoả ước. Việc sửa đổi, bổ sung được tiến hành
theo trình tự như ký kết thoả ước tập thể.
Điều 51.
Trước khi thoả ước tập thể hết hạn, hai bên có thể thương lượng để kéo dài
thời hạn thoả ước tập thể hoặc ký kết thoả ước tập thể mới. Khi thoả ước tập thể
hết hạn mà hai bên vẫn tiếp tục thương lượng, thì thoả ước tập thể vẫn có hiệu
lực. Nếu quá ba tháng, kể từ ngày thoả ước tập thể hết hạn mà thương lượng
không đi đến kết quả, thì thoả ước tập thể đương nhiên hết hiệu lực.
Điều 52.
1- Trong trường
hợp phân chia doanh nghiệp, chuyển quyền sở hữu, quyền quản lý hoặc quyền sử dụng
tài sản của doanh nghiệp, thì người sử dụng lao động kế tiếp phải chịu trách
nhiệm tiếp tục thực hiện thoả ước tập thể cho tới khi hết hạn hoặc tới khi ký kết
thoả ước tập thể mới.
Trong trường
hợp sáp nhập doanh nghiệp, việc thực hiện thoả ước tập thể do Chính phủ quy định.
2- Trong trường hợp thoả ước tập
thể hết hiệu lực do doanh nghiệp chấm dứt hoạt động, thì quyền lợi của người
lao động được giải quyết theo Điều 66 của Bộ luật này.
Điều 53.
Người sử dụng lao động chịu mọi
chi phí cho việc thương lượng, ký kết, đăng ký, sửa đổi, bổ sung, công bố thoả
ước tập thể.
Các đại diện
tập thể lao động là người lao động do doanh nghiệp trả lương, thì vẫn được trả
lương trong thời gian tham gia thương lượng, ký kết thoả ước tập thể.
Điều 54.
Những quy định tại Chương này được áp dụng cho việc thương lượng và ký kết
thoả ước tập thể ngành.
Chương 6:
TIỀN LƯƠNG
Điều 55.
Tiền lương của người lao động do hai bên thoả thuận trong hợp đồng lao động
và được trả theo năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc. Mức
lương của người lao động không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước
quy định.
Điều 56.
Mức lương tối thiểu được ấn định
theo giá sinh hoạt, bảo đảm cho người lao động làm công việc giản đơn nhất
trong Điều kiện lao động bình thường bù đắp sức lao động giản đơn và một phần
tích luỹ tái sản xuất sức lao động mở rộng và được dùng làm căn cứ để tính các
mức lương cho các loại lao động khác.
Chính phủ
quyết định và công bố mức lương tối thiểu chung, mức lương tối thiểu vùng, mức
lương tối thiểu ngành cho từng thời kỳ sau khi lấy ý kiến Tổng liên đoàn lao động
Việt Nam và đại diện của người sử dụng lao động.
Khi chỉ số giá sinh hoạt tăng
lên làm cho tiền lương thực tế của người lao động bị giảm sút, thì Chính phủ Điều
chỉnh mức lương tối thiểu để bảo đảm tiền lương thực tế.
Điều 57.
Chính phủ công bố thang lương, bảng lương để làm cơ
sở tính các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiền lương khi làm thêm giờ,
làm đêm, ngừng việc, nghỉ hàng năm và các trường hợp nghỉ việc khác của người
lao động sau khi lấy ý kiến Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và đại diện của
người sử dụng lao động.
Điều 58.
1- Người sử dụng lao động có quyền
chọn các hình thức trả lương theo thời gian (giờ, ngày, tuần, tháng), theo sản
phẩm, theo khoán nhưng phải duy trì hình thức trả lương đã chọn trong một thời
gian nhất định và phải thông báo cho người lao động biết.
2- Người lao động hưởng lương giờ,
ngày, tuần được trả lương sau giờ, ngày, tuần làm việc ấy hoặc được trả gộp do
hai bên thoả thuận, nhưng ít nhất 15 ngày phải được trả gộp một lần.
3- Người lao động hưởng lương
tháng được trả lương cả tháng một lần hoặc nửa tháng một lần.
4- Người lao động hưởng lương
theo sản phẩm, theo khoán, được trả lương theo thoả thuận của hai bên; nếu công
việc phải làm trong nhiều tháng thì hàng tháng được tạm ứng lương theo khối lượng
công việc đã làm trong tháng.
Điều 59.
1- Người
lao động được trả lương trực tiếp, đầy đủ, đúng thời hạn và tại nơi làm việc.
Trong trường
hợp đặc biệt phải trả lương chậm, thì không được chậm quá một tháng và người sử
dụng lao động phải đền bù cho người lao động một Khoản tiền ít nhất bằng lãi suất
tiền gửi tiết kiệm do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời Điểm trả lương.
2- Lương được trả bằng tiền mặt.
Việc trả lương một phần bằng séc hoặc ngân phiếu do Nhà nước phát hành, do hai
bên thoả thuận với Điều kiện không gây thiệt hại, phiền hà cho người lao động.
Điều 60.
1- Người lao
động có quyền được biết lý do mọi Khoản khấu trừ vào tiền lương của mình. Trước
khi khấu trừ tiền lương của người lao động, người sử dụng lao động phải thảo luận
với Ban chấp hành công đoàn cơ sở; trường hợp khấu trừ thì cũng không được khấu
trừ quá 30% tiền lương hàng tháng.
2- Người sử dụng lao động không
được áp dụng việc xử phạt bằng hình thức cúp lương của người lao động.
Điều 61.
1- Người
lao động làm thêm giờ được trả lương như sau:
a) Vào ngày thường, được trả
lương ít nhất bằng 150% của tiền lương giờ của ngày làm việc bình thường;
b) Vào
ngày nghỉ hàng tuần hoặc ngày lễ, được trả lương ít nhất bằng 200% của tiền
lương giờ của ngày làm việc bình thường.
Nếu làm thêm giờ vào ban đêm thì
còn được trả thêm theo quy định tại Khoản 2 Điều này.
Nếu người lao động được nghỉ bù
những giờ làm thêm, thì người sử dụng lao động chỉ phải trả phần tiền chênh lệch
so với tiền lương giờ của ngày làm việc bình thường.
2- Người lao động làm việc vào
ban đêm quy định tại Điều 70 của Bộ luật này, thì được trả
thêm ít nhất bằng 30% của tiền lương làm việc vào ban ngày.
Điều 62.
Trong trường hợp phải ngừng việc,
người lao động được trả lương như sau:
1- Nếu do lỗi
của người sử dụng lao động, thì người lao động được trả đủ tiền lương;
2- Nếu do lỗi
của người lao động thì người đó không được trả lương; những người lao động khác
trong cùng đơn vị phải ngừng việc được trả lương theo mức do hai bên thoả thuận
nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu;
3- Nếu vì sự
cố về điện, nước mà không do lỗi của người sử dụng lao động hoặc vì những
nguyên nhân bất khả kháng, thì tiền lương do hai bên thoả thuận, nhưng không được
thấp hơn mức lương tối thiểu.
Điều 63.
Các chế độ phụ cấp, tiền thưởng, nâng bậc lương, các chế độ khuyến khích
khác có thể được thoả thuận trong hợp đồng lao động, thoả ước tập thể hoặc quy
định trong quy chế của doanh nghiệp.
Điều 64.
Người sử dụng lao động có trách nhiệm trích từ lợi
nhuận hàng năm để thưởng cho người lao động đã làm việc tại doanh nghiệp từ một
năm trở lên, theo quy định của Chính phủ phù hợp với đặc Điểm của từng loại
doanh nghiệp.
Điều 65.
1- Nơi nào sử dụng người cai thầu
hoặc người có vai trò trung gian tương tự thì người sử dụng lao động là chủ
chính phải có danh sách và địa chỉ của những người ấy kèm theo danh sách những
người lao động làm việc với họ và phải bảo đảm việc họ tuân theo quy định của
pháp luật về trả công lao động, an toàn lao động và vệ sinh lao động.
2- Nếu người cai thầu hoặc người
có vai trò trung gian tương tự trả thiếu hoặc không trả lương và không bảo đảm
các quyền lợi khác cho người lao động, thì người sử dụng lao động là chủ chính
phải chịu trách nhiệm trả lương và bảo đảm các quyền lợi đó cho người lao động.
Trong trường hợp này, người sử dụng lao động là chủ chính có quyền yêu cầu người
cai thầu hoặc người có vai trò trung gian tương tự đền bù hoặc yêu cầu cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật.
Điều 66.
Trong trường hợp sáp nhập, phân chia doanh nghiệp,
chuyển quyền sở hữu, quyền quản lý hoặc quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp
thì người sử dụng lao động kế tiếp phải chịu trách nhiệm trả lương và các quyền
lợi khác cho người lao động. Trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản thì tiền
lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội và các quyền lợi khác của người lao động
theo thoả ước tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết là Khoản nợ trước hết
trong thứ tự ưu tiên thanh toán.
Điều 67.
1- Khi bản
thân hoặc gia đình gặp khó khăn, người lao động được tạm ứng tiền lương theo Điều
kiện do hai bên thoả thuận.
2- Người sử dụng
lao động tạm ứng tiền lương cho người lao động phải tạm thời nghỉ việc để làm
các nghĩa vụ công dân.
3- Việc tạm ứng
tiền lương cho người lao động bị tạm giữ, tạm giam theo quy định của Chính phủ.
Chương 7:
THỜI GIỜ LÀM VIỆC, THỜI
GIỜ NGHỈ NGƠI
Mục I: THỜI
GIỜ LÀM VIỆC
Điều 68
1- Thời giờ
làm việc không quá 8 giờ trong một ngày hoặc 48 giờ trong một tuần. Người sử dụng
lao động có quyền quy định thời giờ làm việc theo ngày hoặc tuần, nhưng phải
thông báo trước cho người lao động biết.
2- Thời giờ
làm việc hàng ngày được rút ngắn từ một đến hai giờ đối với những người làm các
công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo danh Mục do Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành.
Điều 69.
Người sử dụng lao động và người lao động có thể thoả
thuận làm thêm giờ, nhưng không được quá bốn giờ trong một ngày, 200 giờ trong
một năm.
Điều 70.
Thời giờ làm việc ban đêm tính từ 22 giờ đến 6 giờ hoặc từ 21 giờ đến 5 giờ,
tuỳ theo vùng khí hậu do Chính phủ quy định.
Mục II: THỜI
GIỜ NGHỈ NGƠI
Điều 71.
1- Người lao động làm việc 8 giờ
liên tục thì được nghỉ ít nhất nửa giờ, tính vào giờ làm việc.
2- Người làm ca đêm được nghỉ giữa
ca ít nhất 45 phút, tính vào giờ làm việc.
3- Người lao động làm việc theo
ca được nghỉ ít nhất 12 giờ trước khi chuyển sang ca khác.
Điều 72.
1- Mỗi tuần người lao động được
nghỉ ít nhất một ngày (24 giờ liên tục).
2- Người sử
dụng lao động có thể sắp xếp ngày nghỉ hàng tuần vào chủ nhật hoặc vào một ngày
cố định khác trong tuần.
3- Trong trường hợp đặc biệt do
chu kỳ lao động không thể nghỉ hàng tuần thì người sử dụng lao động phải bảo đảm
cho người lao động được nghỉ tính bình quân một tháng ít nhất là bốn ngày.
Điều 73.
Người lao
động được nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương những ngày lễ sau đây:
- Tết dương lịch: một ngày (ngày
1 tháng 1 dương lịch).
- Tết âm lịch: bốn ngày (một
ngày cuối năm và ba ngày đầu năm âm lịch).
- Ngày Chiến thắng: một ngày
(ngày 30 tháng 4 dương lịch).
- Ngày Quốc tế lao động: một
ngày (ngày 1 tháng 5 dương lịch).
- Ngày Quốc khánh: một ngày
(ngày 2 tháng 9 dương lịch).
Nếu những ngày nghỉ nói trên
trùng vào ngày nghỉ hàng tuần thì người lao động được nghỉ bù vào ngày tiếp
theo.
Điều 74.
1- Người lao động có 12 tháng
làm việc tại một doanh nghiệp hoặc với một người sử dụng lao động thì được nghỉ
hàng năm, hưởng nguyên lương theo quy định sau đây:
a) 12 ngày làm việc, đối với người
làm công việc trong Điều kiện bình thường;
b) 14 ngày làm việc, đối với người
làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc làm việc ở những nơi có Điều
kiện sinh sống khắc nghiệt và đối với người dưới 18 tuổi;
c) 16 ngày làm việc, đối với người
làm công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; người làm công việc nặng
nhọc, độc hại, nguy hiểm ở những nơi có Điều kiện sinh sống khắc nghiệt.
2- Thời gian đi đường ngoài ngày
nghỉ hàng năm do Chính phủ quy định.
Điều 75.
Số ngày nghỉ hàng năm được tăng thêm theo thâm niên làm việc tại một doanh
nghiệp hoặc với một người sử dụng lao động, cứ năm năm được nghỉ thêm một ngày.
Điều 76.
1- Người sử dụng lao động có quyền
quy định lịch nghỉ hàng năm sau khi tham khảo ý kiến của Ban chấp hành công
đoàn cơ sở và phải thông báo trước cho mọi người trong doanh nghiệp.
2- Người
lao động có thể thoả thuận với người sử dụng lao động để nghỉ hàng năm thành
nhiều lần. Người làm việc ở nơi xa xôi hẻo lánh, nếu có yêu cầu, được gộp số
ngày nghỉ của hai năm để nghỉ một lần; nếu nghỉ gộp ba năm một lần thì phải được
người sử dụng lao động đồng ý.
3- Người lao động
do thôi việc hoặc vì các lý do khác mà chưa nghỉ hàng năm hoặc chưa nghỉ hết số
ngày nghỉ hàng năm, thì được trả lương những ngày chưa nghỉ.
Điều 77.
1- Khi nghỉ hàng năm, người lao
động được ứng trước một Khoản tiền ít nhất bằng tiền lương của những ngày nghỉ.
Tiền tàu xe và tiền lương của người lao động trong những ngày đi đường do hai bên
thoả thuận.
2- Người lao động
có dưới 12 tháng làm việc thì thời gian nghỉ hàng năm được tính theo tỷ lệ
tương ứng với số thời gian làm việc và có thể được thanh toán bằng tiền.
Mục III: NGHỈ
VỀ VIỆC RIÊNG, NGHỈ KHÔNG HƯỞNG LƯƠNG
Điều 78.
Người lao động được nghỉ về việc riêng mà vẫn hưởng nguyên lương trong những
trường hợp sau đây:
1- Kết hôn, nghỉ ba ngày;
2- Con kết hôn, nghỉ một ngày;
3- Bố mẹ (cả bên chồng và bên vợ)
chết, vợ hoặc chồng chết, con chết, nghỉ ba ngày.
Điều 79.
Người lao động có thể thoả thuận với người sử dụng lao động để nghỉ không
hưởng lương.
Mục IV: THỜI
GIỜ LÀM VIỆC VÀ THỜI GIỜ NGHỈ NGƠI ĐỐI VỚI NGƯỜI LÀM CÁC CÔNG VIỆC CÓ TÍNH CHẤT
ĐẶC BIỆT
Điều 80.
Thời giờ làm việc và thời giờ nghỉ ngơi của những người làm việc trên biển,
trong hầm mỏ và làm các công việc có tính chất đặc biệt khác do Chính phủ quy định.
Điều 81.
Thời giờ làm việc và thời giờ nghỉ ngơi của những người làm hợp đồng không
trọn ngày, không trọn tuần, làm khoán do người lao động và người sử dụng lao động
thoả thuận.
Chương 8:
KỶ LUẬT LAO ĐỘNG, TRÁCH
NHIỆM VẬT CHẤT
Điều 82.
1- Kỷ luật lao
động là những quy định về việc tuân theo thời gian, công nghệ và Điều hành sản
xuất, kinh doanh thể hiện trong nội quy lao động.
Nội quy lao động không được trái
với pháp luật lao động và pháp luật khác. Doanh nghiệp sử dụng từ 10 người lao
động trở lên phải có nội quy lao động bằng văn bản.
2- Trước khi ban hành nội quy
lao động, người sử dụng lao động phải tham khảo ý kiến của Ban chấp hành công
đoàn cơ sở trong doanh nghiệp.
3- Người sử
dụng lao động phải đăng ký bản nội quy lao động tại cơ
quan lao động cấp tỉnh. Nội quy lao động có hiệu lực, kể từ ngày được đăng
ký. Chậm nhất là 10 ngày, kể từ ngày nhận được bản nội quy lao động, cơ quan
lao động cấp tỉnh phải thông báo việc đăng ký. Nếu hết thời hạn trên mà không
có thông báo, thì bản nội quy lao động đương nhiên có hiệu lực.
Điều 83.
1- Nội quy lao
động phải có những nội dung chủ yếu sau đây:
a) Thời giờ làm việc và thời giờ
nghỉ ngơi;
b) Trật tự trong doanh nghiệp;
c) An toàn lao động, vệ sinh lao
động ở nơi làm việc;
d) Việc bảo vệ tài sản và bí mật
công nghệ, kinh doanh của doanh nghiệp;
đ) Các hành vi vi phạm kỷ luật
lao động, các hình thức xử lý kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất.
2- Nội quy lao động phải được
thông báo đến từng người và những Điểm chính phải được niêm yết ở những nơi cần
thiết trong doanh nghiệp.
Điều 84.
1- Người vi
phạm kỷ luật lao động, tuỳ theo mức độ phạm lỗi, bị xử lý theo một trong những
hình thức sau đây:
a) Khiển trách;
b) Chuyển
làm công việc khác có mức lương thấp hơn trong thời hạn tối đa là sáu tháng;
c) Sa thải.
2- Không được
áp dụng nhiều hình thức xử lý kỷ luật lao động đối với một hành vi vi phạm kỷ
luật lao động.
Điều 85.
1- Hình
thức xử lý kỷ luật sa thải chỉ được áp dụng trong những trường hợp sau đây:
a) Người lao
động có hành vi trộm cắp, tham ô, tiết lộ bí mật công nghệ, kinh doanh hoặc có
hành vi khác gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của doanh nghiệp;
b) Người lao động bị xử lý kỷ luật
chuyển làm công việc khác mà tái phạm trong thời gian chưa xoá kỷ luật;
c) Người
lao động tự ý bỏ việc bảy ngày trong một tháng hoặc 20 ngày trong một năm mà
không có lý do chính đáng.
2- Sau khi sa thải người lao động,
người sử dụng lao động phải báo cho cơ quan lao động cấp tỉnh biết.
Điều 86.
Thời hiệu để xử lý vi phạm kỷ luật lao động tối đa
là ba tháng, kể từ ngày xảy ra vi phạm, trường hợp đặc biệt cũng không được quá
sáu tháng.
Điều 87.
1- Khi tiến hành việc xử lý vi
phạm kỷ luật lao động, người sử dụng lao động phải chứng minh được lỗi của người
lao động.
2- Người lao động có quyền tự
bào chữa hoặc nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác bào chữa.
3- Khi xem xét xử lý kỷ luật lao
động phải có mặt đương sự và phải có sự tham gia của đại diện Ban chấp hành công
đoàn cơ sở trong doanh nghiệp.
4- Việc xem xét xử lý kỷ luật
lao động phải được ghi thành biên bản.
Điều 88.
1- Người
bị khiển trách sau ba tháng và người bị xử lý kỷ luật chuyển làm công việc khác
sau sáu tháng, kể từ ngày bị xử lý, nếu không tái phạm thì đương nhiên được xoá
kỷ luật.
2- Người bị xử lý kỷ luật chuyển
làm công việc khác, sau khi chấp hành được một nửa thời hạn, nếu sửa chữa tiến
bộ, thì được người sử dụng lao động xét giảm thời hạn.
Điều 89.
Người lao động làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị hoặc có
hành vi khác gây thiệt hại cho tài sản của doanh nghiệp thì phải bồi thường
theo quy định của pháp luật về thiệt hại đã gây ra. Nếu gây thiệt hại không
nghiêm trọng do sơ suất, thì phải bồi thường nhiều nhất ba tháng lương và bị khấu
trừ dần vào lương theo quy định tại Điều 60 của Bộ luật này.
Điều 90.
Người lao động làm mất dụng cụ, thiết bị, làm mất
các tài sản khác do doanh nghiệp giao hoặc tiêu hao vật tư quá định mức cho
phép thì tuỳ trường hợp phải bồi thường thiệt hại một phần hay toàn bộ theo thời
giá thị trường; trong trường hợp có hợp đồng trách nhiệm thì phải bồi thường
theo hợp đồng trách nhiệm; trong trường hợp bất khả kháng thì không phải bồi
thường.
Điều 91.
Trình tự, thủ tục xử lý việc bồi thường thiệt hại
quy định tại Điều 89 và Điều 90 được áp dụng như quy định tại Điều 86 và Điều
87 của Bộ luật này.
Điều 92.
1- Người sử dụng
lao động có quyền tạm đình chỉ công việc của người lao động khi vụ việc vi phạm
có những tình tiết phức tạp, nếu xét thấy để người lao động tiếp tục làm việc sẽ
gây khó khăn cho việc xác minh, sau khi tham khảo ý kiến của Ban chấp hành công
đoàn cơ sở.
2- Thời hạn tạm đình chỉ công việc
không được quá 15 ngày, trường hợp đặc biệt cũng không được quá ba tháng. Trong
thời gian đó, người lao động được tạm ứng 50% tiền lương trước khi bị đình chỉ
công việc.
Hết thời hạn tạm đình chỉ công
việc, người lao động phải được tiếp tục làm việc.
3- Nếu có lỗi mà bị xử lý kỷ luật
lao động, người lao động cũng không phải trả lại số tiền đã tạm ứng.
4- Nếu người lao động không có lỗi
thì người sử dụng lao động phải trả đủ tiền lương và phụ cấp lương trong thời
gian tạm đình chỉ công việc.
Điều 93.
Người bị xử lý kỷ luật lao động, bị tạm đình chỉ công việc hoặc phải bồi
thường theo chế độ trách nhiệm vật chất nếu thấy không thoả đáng, có quyền khiếu
nại với người sử dụng lao động, với cơ quan có thẩm quyền hoặc yêu cầu giải quyết
tranh chấp lao động theo trình tự do pháp luật quy định.
Điều 94.
Khi cơ quan có thẩm quyền kết luận về quyết định xử lý của người sử dụng
lao động là sai, thì người sử dụng lao động phải huỷ bỏ quyết định đó, xin lỗi
công khai, khôi phục danh dự và mọi quyền lợi vật chất cho người lao động.
Chương 9:
AN TOÀN LAO ĐỘNG, VỆ
SINH LAO ĐỘNG
Điều 95.
1- Người sử dụng
lao động có trách nhiệm trang bị đầy đủ phương tiện bảo hộ lao động, bảo đảm an
toàn lao động, vệ sinh lao động và cải thiện Điều kiện lao động cho người lao động.
Người lao động phải tuân thủ các quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động
và nội quy lao động của doanh nghiệp. Mọi tổ chức và cá nhân có liên quan đến
lao động, sản xuất phải tuân theo pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động
và về bảo vệ môi trường.
2- Chính phủ
lập chương trình quốc gia về bảo hộ lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động,
đưa vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách của Nhà nước; đầu tư
nghiên cứu khoa học, hỗ trợ phát triển các cơ sở sản xuất dụng cụ, thiết bị an
toàn lao động, vệ sinh lao động, phương tiện bảo vệ cá nhân; ban hành hệ thống
tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm về an toàn lao động, vệ sinh lao động.
3- Tổng liên
đoàn lao động Việt Nam tham gia với Chính phủ trong việc xây dựng chương trình
quốc gia về bảo hộ lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động, xây dựng
chương trình nghiên cứu khoa học và xây dựng pháp luật về bảo hộ lao động, an
toàn lao động, vệ sinh lao động.
Điều 96.
1- Việc xây dựng
mới hoặc mở rộng, cải tạo cơ sở để sản xuất, sử dụng, bảo quản, lưu giữ và tàng
trữ các loại máy, thiết bị, vật tư, các chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn
lao động, vệ sinh lao động, phải có luận chứng về các biện pháp bảo đảm an toàn
lao động, vệ sinh lao động đối với nơi làm việc của người lao động và môi trường
xung quanh theo quy định của pháp luật.
Danh Mục các loại máy, thiết bị,
vật tư, các chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động, vệ sinh lao động
do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành.
2- Việc sản xuất,
sử dụng, bảo quản, vận chuyển các loại máy, thiết bị, vật tư, năng lượng, điện,
hoá chất, thuốc trừ sâu, diệt cỏ, diệt chuột, việc thay đổi công nghệ, nhập khẩu
công nghệ mới phải được thực hiện theo tiêu chuẩn an toàn lao động, vệ sinh lao
động. Các loại máy, thiết bị, vật tư, các chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an
toàn lao động, vệ sinh lao động phải được khai báo, đăng ký và xin cấp giấy
phép với cơ quan thanh tra Nhà nước về an toàn lao động hoặc vệ sinh lao động.
Điều 97.
Người sử dụng lao động phải bảo đảm nơi làm việc đạt tiêu chuẩn về không
gian, độ thoáng, độ sáng, đạt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép về bụi, hơi, khí độc,
phóng xạ, điện từ trường, nóng, ẩm, ồn, rung và các yếu tố có hại khác. Các yếu
tố đó phải được định kỳ kiểm tra đo lường.
Điều 98.
1- Người sử dụng lao động phải định
kỳ kiểm tra, tu sửa máy, thiết bị, nhà xưởng, kho tàng theo tiêu chuẩn an toàn
lao động, vệ sinh lao động.
2- Người sử dụng lao động phải
có đủ các phương tiện che chắn các bộ phận dễ gây nguy hiểm của máy, thiết bị
trong doanh nghiệp; nơi làm việc, nơi đặt máy, thiết bị, nơi có yếu tố nguy hiểm,
độc hại trong doanh nghiệp, phải bố trí đề phòng sự cố, có bảng chỉ dẫn về an
toàn lao động, vệ sinh lao động đặt ở vị trí mà mọi người dễ thấy, dễ đọc.
Điều 99.
1- Trong trường hợp nơi làm việc,
máy, thiết bị có nguy cơ gây tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, người sử dụng
lao động phải thực hiện ngay những biện pháp khắc phục hoặc phải ra lệnh ngừng
hoạt động tại nơi làm việc và đối với máy, thiết bị đó cho tới khi nguy cơ được
khắc phục.
2- Người lao động có quyền từ chối
làm công việc hoặc rời bỏ nơi làm việc khi thấy rõ có nguy cơ xảy ra tai nạn
lao động đe doạ nghiêm trọng tính mạng hoặc sức khoẻ của mình và phải báo ngay
với người phụ trách trực tiếp. Người sử dụng lao động không được buộc người lao
động tiếp tục làm công việc đó hoặc trở lại nơi làm việc đó nếu nguy cơ chưa được
khắc phục.
Điều 100.
Nơi làm việc có yếu tố nguy hiểm, độc hại, dễ gây tai nạn lao động phải được
người sử dụng lao động trang bị phương tiện kỹ thuật, y tế và trang bị bảo hộ
lao động thích hợp để bảo đảm ứng cứu kịp thời khi xảy ra sự cố, tai nạn lao động.
Điều 101.
Người lao động làm công việc có
yếu tố nguy hiểm, độc hại phải được cấp đầy đủ phương tiện bảo vệ cá nhân.
Người sử dụng lao động phải bảo
đảm các phương tiện bảo vệ cá nhân đạt tiêu chuẩn chất lượng và quy cách theo
quy định của pháp luật.
Điều 102.
Khi tuyển dụng và sắp xếp lao động,
người sử dụng lao động phải căn cứ vào tiêu chuẩn sức khoẻ quy định cho từng loại
việc, tổ chức huấn luyện, hướng dẫn, thông báo cho người lao động về những quy
định, biện pháp làm việc an toàn, vệ sinh và những khả năng tai nạn cần đề
phòng trong công việc của từng người lao động.
Người lao động phải được khám sức
khoẻ khi tuyển dụng và khám sức khoẻ định kỳ theo chế độ quy định. Chi phí khám
sức khoẻ cho người lao động do người sử dụng lao động chịu.
Điều 103.
Doanh nghiệp có trách nhiệm tổ chức chăm lo sức khoẻ cho người lao động và
phải kịp thời sơ cứu, cấp cứu cho người lao động khi cần thiết.
Điều 104.
Người làm việc
trong Điều kiện có yếu tố nguy hiểm, độc hại được bồi dưỡng bằng hiện vật, hưởng
chế độ ưu đãi về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi theo quy định của pháp
luật.
Người làm việc ở nơi có yếu tố
gây nhiễm độc, nhiễm trùng, khi hết giờ làm việc phải được người sử dụng lao động
bảo đảm các biện pháp khử độc, khử trùng, vệ sinh cá nhân.
Điều 105.
Tai nạn lao động là tai nạn gây
tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể người lao động hoặc gây
tử vong, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc,
nhiệm vụ lao động.
Người bị tai
nạn lao động phải được cấp cứu kịp thời và Điều trị chu đáo. Người sử dụng lao
động phải chịu trách nhiệm về việc để xảy ra tai nạn lao động theo quy định của
pháp luật.
Điều 106.
Bệnh nghề nghiệp là bệnh phát
sinh do Điều kiện lao động có hại của nghề nghiệp tác động đối với người lao động.
Danh Mục các loại bệnh nghề nghiệp do Bộ Y tế và Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội ban hành sau khi lấy ý kiến Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và đại diện
của người sử dụng lao động.
Người bị bệnh nghề nghiệp phải
được Điều trị chu đáo, khám sức khoẻ định kỳ, có hồ sơ sức khoẻ riêng biệt.
Điều 107.
1- Người tàn tật do bị tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp được giám định y khoa để xếp hạng thương tật, xác định
mức độ suy giảm khả năng lao động và được phục hồi chức năng lao động; nếu còn
tiếp tục làm việc, thì được sắp xếp công việc phù hợp với sức khoẻ theo kết luận
của Hội đồng giám định y khoa lao động.
2- Người sử dụng lao động phải
chịu toàn bộ chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi Điều trị xong cho người
bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp. Người lao động được hưởng chế độ bảo
hiểm xã hội về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Nếu doanh nghiệp chưa tham
gia loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc, thì người sử dụng lao động phải trả cho
người lao động một Khoản tiền ngang với mức quy định trong Điều lệ bảo hiểm xã
hội.
3- Người sử dụng
lao động có trách nhiệm bồi thường ít nhất bằng 30 tháng lương cho người lao động
bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người chết do
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mà không do lỗi của người lao động. Trường hợp
do lỗi của người lao động, thì cũng được trợ cấp một Khoản tiền ít nhất bằng 12
tháng lương.
Điều 108.
Tất cả các vụ tai nạn lao động,
các trường hợp bị bệnh nghề nghiệp đều phải được khai báo, Điều tra, lập biên bản,
thống kê và báo cáo định kỳ theo quy định của pháp luật.
Nghiêm cấm mọi hành vi che giấu,
khai báo hoặc báo cáo sai sự thật về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Chương
10:
NHỮNG QUY ĐỊNH RIÊNG ĐỐI
VỚI LAO ĐỘNG NỮ
Điều 109.
1- Nhà nước
bảo đảm quyền làm việc của phụ nữ bình đẳng về mọi mặt với nam giới, có chính
sách khuyến khích người sử dụng lao động tạo Điều kiện để người lao động nữ có
việc làm thường xuyên, áp dụng rộng rãi chế độ làm việc theo thời gian biểu
linh hoạt, làm việc không trọn ngày, không trọn tuần, giao việc làm tại nhà.
2- Nhà nước
có chính sách và biện pháp từng bước mở mang việc làm, cải thiện Điều kiện lao
động, nâng cao trình độ nghề nghiệp, chăm sóc sức khoẻ, tăng cường phúc lợi về
vật chất và tinh thần của lao động nữ nhằm giúp lao động nữ phát huy có hiệu quả
năng lực nghề nghiệp, kết hợp hài hoà cuộc sống lao động và cuộc sống gia đình.
Điều 110.
1- Các cơ quan Nhà nước có trách
nhiệm mở rộng nhiều loại hình đào tạo thuận lợi cho lao động nữ để ngoài nghề
đang làm người lao động nữ còn có thêm nghề dự phòng và để việc sử dụng lao động
nữ được dễ dàng, phù hợp với đặc Điểm về cơ thể, sinh lý và chức năng làm mẹ của
phụ nữ.
2- Nhà nước
có chính sách ưu đãi, xét giảm thuế đối với những doanh nghiệp sử dụng nhiều
lao động nữ.
Điều 111.
1- Nghiêm cấm người sử dụng lao
động có hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm danh dự và nhân phẩm phụ
nữ.
Người sử dụng lao động phải thực
hiện nguyên tắc bình đẳng nam nữ về tuyển dụng, sử dụng, nâng bậc lương và trả
công lao động.
2- Người sử dụng lao động phải
ưu tiên nhận phụ nữ vào làm việc khi người đó đủ tiêu chuẩn tuyển chọn làm công
việc phù hợp với cả nam và nữ mà doanh nghiệp đang cần.
3- Người sử dụng
lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với
người lao động nữ vì lý do kết hôn, có thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12
tháng tuổi, trừ trường hợp doanh nghiệp chấm dứt hoạt động.
Điều 112.
Người lao động nữ có thai có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà
không phải bồi thường theo quy định tại Điều 41 của Bộ luật này,
nếu có giấy của thầy thuốc chứng nhận tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới
thai nhi. Trong trường hợp này, thời hạn mà người lao động nữ phải báo trước
cho người sử dụng lao động tuỳ thuộc vào thời hạn do thầy thuốc chỉ định.
Điều 113.
1- Người sử dụng
lao động không được sử dụng người lao động nữ làm những công việc nặng nhọc,
nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại có ảnh hưởng xấu tới chức năng
sinh đẻ và nuôi con, theo danh Mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ
Y tế ban hành.
Doanh nghiệp nào đang sử dụng
lao động nữ làm các công việc nói trên phải có kế hoạch đào tạo nghề, chuyển dần
người lao động nữ sang công việc khác phù hợp, tăng cường các biện pháp bảo vệ
sức khoẻ, cải thiện Điều kiện lao động hoặc giảm bớt thời giờ làm việc.
2- Người sử dụng lao động không
được sử dụng người lao động nữ bất kỳ độ tuổi nào làm việc thường xuyên dưới hầm
mỏ hoặc ngâm mình dưới nước.
Điều 114.
1- Người lao động nữ được nghỉ
trước và sau khi sinh con, cộng lại từ bốn đến sáu tháng do Chính phủ quy định,
tuỳ theo Điều kiện lao động, tính chất công việc nặng nhọc, độc hại và nơi xa
xôi hẻo lánh. Nếu sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi con,
người mẹ được nghỉ thêm 30 ngày. Quyền lợi của người lao động nữ trong thời
gian nghỉ thai sản được quy định tại Điều 141 và Điều 144 của Bộ
luật này.
2- Hết thời
gian nghỉ thai sản quy định tại Khoản 1 Điều này, nếu có nhu cầu, người lao động
nữ có thể nghỉ thêm một thời gian không hưởng lương theo thoả thuận với người sử
dụng lao động. Người lao động nữ có thể đi làm việc trước khi hết thời gian nghỉ
thai sản, nếu đã nghỉ ít nhất được hai tháng sau khi sinh và có giấy của thầy
thuốc chứng nhận việc trở lại làm việc sớm không có hại cho sức khoẻ và phải
báo cho người sử dụng lao động biết trước. Trong trường hợp này, người lao động
nữ vẫn tiếp tục được hưởng trợ cấp thai sản, ngoài tiền lương của những ngày
làm việc.
Điều 115.
1- Người sử dụng lao động không
được sử dụng người lao động nữ có thai từ tháng thứ bảy hoặc đang nuôi con dưới
12 tháng tuổi làm thêm giờ, làm việc ban đêm và đi công tác xa.
2- Người lao động nữ làm công việc
nặng nhọc, khi có thai đến tháng thứ bảy, được chuyển làm công việc nhẹ hơn hoặc
được giảm bớt một giờ làm việc hàng ngày mà vẫn hưởng đủ lương.
3- Người lao động nữ trong thời
gian hành kinh được nghỉ mỗi ngày 30 phút; trong thời gian nuôi con dưới 12
tháng tuổi, được nghỉ mỗi ngày 60 phút trong thời gian làm việc, mà vẫn hưởng đủ
lương.
Điều 116.
1- Nơi có sử dụng lao động nữ,
phải có chỗ thay quần áo, buồng tắm và buồng vệ sinh nữ.
2- Ở những nơi sử dụng nhiều lao
động nữ, người sử dụng lao động có trách nhiệm giúp đỡ tổ chức nhà trẻ, lớp mẫu
giáo hoặc hỗ trợ một phần chi phí cho lao động nữ có con ở lứa tuổi gửi trẻ, mẫu
giáo.
Điều 117.
1- Trong thời gian nghỉ việc để
đi khám thai, để thực hiện biện pháp kế hoạch hoá gia đình hoặc do sảy thai;
nghỉ để chăm sóc con dưới bảy tuổi ốm đau, nhận trẻ sơ sinh làm con nuôi, người
lao động nữ được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội hoặc được người sử dụng lao động
trả một Khoản tiền bằng mức trợ cấp bảo hiểm xã hội. Thời gian nghỉ việc và chế
độ trợ cấp nói tại Khoản này do Chính phủ quy định. Trường hợp người khác thay
người mẹ chăm sóc con ốm đau, thì người mẹ vẫn được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội.
2- Hết thời gian nghỉ thai sản
theo chế độ và cả trong trường hợp được phép nghỉ thêm không hưởng lương, khi
trở lại làm việc, người lao động nữ vẫn được bảo đảm chỗ làm việc.
Điều 118.
1- Các
doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ phải phân công người trong bộ máy quản
lý Điều hành doanh nghiệp làm nhiệm vụ theo dõi vấn đề lao động nữ; khi quyết định
những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của phụ nữ và trẻ em, phải tham khảo
ý kiến của đại diện những người lao động nữ.
2- Trong số Thanh tra viên lao động
phải có tỷ lệ thích đáng nữ Thanh tra viên.
Chương
11:
NHỮNG QUY ĐỊNH RIÊNG ĐỐI
VỚI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN VÀ MỘT SỐ LOẠI LAO ĐỘNG KHÁC
Mục I: LAO
ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN
Điều 119.
1- Người lao động chưa thành
niên là người lao động dưới 18 tuổi. Nơi có sử dụng người lao động chưa thành
niên phải lập sổ theo dõi riêng, ghi đầy đủ họ tên, ngày sinh, công việc đang
làm, kết quả những lần kiểm tra sức khoẻ định kỳ và xuất trình khi thanh tra
viên lao động yêu cầu.
2- Nghiêm cấm lạm dụng sức lao động
của người chưa thành niên.
Điều 120.
Cấm nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi
vào làm việc, trừ một số nghề và công việc do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
quy định.
Đối với ngành nghề và công việc
được nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc, học nghề, tập nghề thì việc nhận
và sử dụng những trẻ em này phải có sự đồng ý và theo dõi của cha mẹ hoặc người
đỡ đầu.
Điều 121.
Người sử
dụng lao động chỉ được sử dụng người lao động chưa thành niên vào những công việc
phù hợp với sức khoẻ để bảo đảm sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách và có
trách nhiệm quan tâm chăm sóc người lao động chưa thành niên về các mặt lao động,
tiền lương, sức khoẻ, học tập trong quá trình lao động.
Cấm sử dụng người lao động chưa
thành niên làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp
xúc với các chất độc hại theo danh Mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
và Bộ Y tế ban hành.
Điều 122.
1- Thời giờ làm việc của người
lao động chưa thành niên không được quá bảy giờ một ngày hoặc 42 giờ một tuần.
2- Người sử dụng lao động chỉ được
sử dụng người lao động chưa thành niên làm thêm giờ, làm việc ban đêm trong một
số nghề và công việc do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định.
Mục II: LAO
ĐỘNG LÀ NGƯỜI CAO TUỔI
Điều 123.
Người lao động cao tuổi là người
lao động nam trên 60 tuổi, nữ trên 55 tuổi.
Năm cuối cùng
trước khi nghỉ hưu, người lao động cao tuổi được rút ngắn thời giờ làm việc
hàng ngày hoặc được áp dụng chế độ làm việc không trọn ngày, không trọn tuần
theo quy định của Chính phủ.
Điều 124.
1- Nếu có nhu cầu, người sử dụng
lao động có thể thoả thuận với người lao động cao tuổi kéo dài thời hạn hợp đồng
hoặc giao kết hợp đồng lao động mới theo quy định tại Chương IV của Bộ luật này.
2- Khi đã
nghỉ hưu, nếu làm việc theo hợp đồng lao động mới, thì ngoài quyền lợi theo chế
độ hưu trí, người lao động cao tuổi vẫn được hưởng quyền lợi đã thoả thuận theo
hợp đồng lao động.
3- Người sử dụng lao động có
trách nhiệm quan tâm chăm sóc sức khoẻ người lao động cao tuổi, không được sử dụng
người lao động cao tuổi làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc
với các chất độc hại có ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ người cao tuổi.
Mục III:
LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI TÀN TẬT
Điều 125.
1- Nhà nước bảo
hộ quyền làm việc của người tàn tật và khuyến khích việc thu nhận, tạo việc làm
cho người tàn tật. Hàng năm, Nhà nước dành một Khoản ngân sách để giúp người
tàn tật phục hồi sức khoẻ, phục hồi chức năng lao động, học nghề và có chính
sách cho vay với lãi suất thấp để người tàn tật tự tạo việc làm và tự ổn định đời
sống.
2- Những nơi
thu nhận người tàn tật vào học nghề được xét giảm thuế, được vay vốn với lãi suất
thấp và được hưởng các ưu đãi khác để tạo Điều kiện cho người tàn tật học nghề.
3- Chính phủ
quy định tỷ lệ lao động là người tàn tật đối với một số nghề và công việc mà
doanh nghiệp phải nhận; nếu không nhận thì doanh nghiệp phải góp một Khoản tiền
theo quy định của Chính phủ vào quỹ việc làm để góp phần giải quyết việc làm
cho người tàn tật. Doanh nghiệp nào nhận người tàn tật vào làm việc vượt tỷ lệ
quy định thì được Nhà nước hỗ trợ hoặc cho vay với lãi suất thấp để tạo Điều kiện
làm việc thích hợp cho người lao động là người tàn tật.
4- Thời giờ
làm việc của người tàn tật không được quá bảy giờ một ngày hoặc 42 giờ một tuần.
Điều 126.
Cơ sở dạy nghề và những cơ sở sản
xuất kinh doanh dành riêng cho người tàn tật được giúp đỡ cơ sở vật chất ban đầu
về nhà xưởng, trường, lớp, trang bị, thiết bị và được miễn thuế, được vay vốn với
lãi suất thấp.
Điều 127.
1- Những nơi
dạy nghề cho người tàn tật hoặc sử dụng lao động là người tàn tật phải tuân
theo những quy định về Điều kiện lao động, công cụ lao động, an toàn lao động,
vệ sinh lao động phù hợp và thường xuyên chăm sóc sức khoẻ của lao động là người
tàn tật.
2- Cấm sử dụng
người tàn tật đã bị suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên làm thêm giờ, làm
việc ban đêm.
3- Người sử dụng
lao động không được sử dụng lao động là người tàn tật làm những công việc nặng
nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh Mục do Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành.
Điều 128.
Người lao động là thương binh, bệnh binh, ngoài các quyền lợi quy định tại
các Điều trong Mục này, còn được hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước đối với
thương binh, bệnh binh.
Mục IV: LAO
ĐỘNG CÓ TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN, KỸ THUẬT CAO
Điều 129.
1- Người lao
động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao có quyền kiêm việc hoặc kiêm chức
trên cơ sở giao kết nhiều hợp đồng lao động với nhiều người sử dụng lao động, với
Điều kiện bảo đảm thực hiện đầy đủ các hợp đồng lao động đã giao kết và phải
báo cho người sử dụng lao động biết.
2- Người lao động
có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao được bảo hộ về quyền tác giả theo quy định
của pháp luật khi có giải pháp hữu ích và sáng chế, phát minh. Trường hợp công
trình nghiên cứu do vốn đầu tư của doanh nghiệp tài trợ thì được chia hiệu quả
kinh tế theo hợp đồng đã ký kết về đề tài nghiên cứu đó.
3- Người lao
động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao có quyền nghỉ dài hạn không hưởng
lương hoặc được hưởng một phần lương để nghiên cứu khoa học hoặc để học tập
nâng cao trình độ mà vẫn được giữ chỗ làm việc, theo thoả thuận với người sử dụng
lao động.
4- Người lao
động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao được ưu tiên áp dụng quy định tại
Khoản 1 và Khoản 2 Điều 124 của Bộ luật này.
5- Nếu tiết lộ bí mật công nghệ,
kinh doanh của nơi mình làm việc thì ngoài việc bị xử lý kỷ luật theo quy định
tại Điều 85 của Bộ luật này, người lao động có trình độ
chuyên môn, kỹ thuật cao còn phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 89 và Điều 90 của Bộ luật này.
Điều 130.
1- Người sử dụng lao động có quyền
giao kết hợp đồng lao động với bất kỳ người nào có trình độ chuyên môn, kỹ thuật
cao, kể cả công chức Nhà nước trong những công việc mà quy chế công chức không
cấm.
2- Người lao động có trình độ
chuyên môn, kỹ thuật cao được Nhà nước và người sử dụng lao động ưu đãi, tạo Điều
kiện thuận lợi để không ngừng phát huy tài năng có lợi cho doanh nghiệp và có lợi
cho đất nước. Những ưu đãi đối với người lao động có trình độ chuyên môn, kỹ
thuật cao không bị coi là phân biệt đối xử trong sử dụng lao động.
3- Nhà nước khuyến khích và có
chính sách ưu đãi đặc biệt đối với người lao động có trình độ chuyên môn, kỹ
thuật cao đến làm việc ở vùng cao, biên giới, hải đảo và những vùng có nhiều
khó khăn.
Mục V: LAO ĐỘNG
CHO TỔ CHỨC, CÁ NHÂN NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM, NGƯỜI NƯỚC NGOÀI LAO ĐỘNG TẠI VIỆT
NAM, LAO ĐỘNG Ở NƯỚC NGOÀI
Điều 131.
Công dân Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp được thành lập theo Luật
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, trong khu chế xuất, trong các cơ quan, tổ chức
nước ngoài hoặc quốc tế tại Việt Nam, hoặc làm việc cho cá nhân là người nước
ngoài tại Việt Nam và người nước ngoài lao động tại Việt Nam đều phải tuân theo
pháp luật lao động Việt Nam và được pháp luật lao động Việt Nam bảo vệ.
Điều 132.
1- Các
doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức và cá nhân quy định tại Điều 131 của Bộ luật này
muốn tuyển lao động là người Việt Nam phải thông qua tổ chức dịch vụ việc làm
quy định tại Điều 18 của Bộ luật này. Nếu tổ chức dịch vụ việc làm giới thiệu hoặc
tuyển lao động không đáp ứng yêu cầu, thì doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân có
quyền trực tiếp tuyển và phải báo cho cơ quan lao động cấp tỉnh hoặc cơ quan có
thẩm quyền khác.
Đối với công
việc đòi hỏi kỹ thuật cao hoặc công việc quản lý mà phía Việt Nam chưa đáp ứng
được, doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân được tuyển người nước ngoài cho một thời
hạn nhất định nhưng phải có kế hoạch, chương trình đào tạo để người Việt Nam có
thể sớm làm được công việc đó và thay thế họ.
2- Mức lương
tối thiểu đối với người lao động là người Việt Nam làm việc trong các trường hợp
quy định tại Điều 131 của Bộ luật này, do Chính phủ quyết định và công bố sau khi lấy ý kiến Tổng
liên đoàn lao động Việt Nam và đại diện của người sử dụng lao động.
3- Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi, an toàn lao động, vệ sinh lao động, bảo hiểm xã hội, việc giải quyết
tranh chấp lao động trong các doanh nghiệp, tổ chức và các trường hợp khác quy
định tại Điều 131 của Bộ luật này, được thực hiện theo quy
định của Chính phủ Việt Nam.
Điều 133.
1- Người nước
ngoài làm việc thường xuyên cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc
cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam phải có giấy phép
lao động do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Việt Nam cấp.
2- Người nước ngoài lao động tại
Việt Nam được hưởng các quyền lợi và phải thực hiện các nghĩa vụ theo pháp luật
Việt Nam, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
Điều 134.
1- Người
lao động là công dân Việt Nam được phép đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng lao động mà người đó chịu sự Điều hành của tổ chức, cá
nhân nước ngoài, thì phải tuân theo các quy định của pháp luật lao động nước sở
tại; nếu theo hiệp định về hợp tác lao động được ký kết giữa Chính phủ Việt Nam
với Chính phủ nước sở tại thì phải tuân theo các quy định của pháp luật lao động
nước sở tại và hiệp định đó.
2- Đối với
người lao động là công dân Việt Nam được phép đi làm việc ở nước ngoài theo hình
thức nhận thầu, khoán công trình do doanh nghiệp Việt Nam Điều hành và trả
lương, thì áp dụng các quy định của Bộ luật này, trừ trường hợp Điều ước quốc tế
mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
Điều 135.
1- Người
lao động đi làm việc ở nước ngoài có quyền được biết các quyền lợi và nghĩa vụ
của mình, được các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam ở nước ngoài bảo hộ về mặt
lãnh sự và tư pháp, được quyền chuyển thu nhập bằng ngoại tệ và tài sản cá nhân
về nước, được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội và các chính sách, chế độ khác theo
quy định pháp luật của Việt Nam và của nước sở tại.
2- Người
lao động đi làm việc ở nước ngoài có nghĩa vụ đóng góp một phần tiền lương cho
quỹ bảo hiểm xã hội.
Mục VI: MỘT SỐ
LOẠI LAO ĐỘNG KHÁC
Điều 136.
Người làm nghề hoặc công việc đặc biệt trong lĩnh vực nghệ thuật được áp dụng
một số chế độ phù hợp về tuổi học nghề và tuổi nghỉ hưu; về ký kết hợp đồng lao
động; về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; về tiền lương, phụ cấp lương,
tiền thưởng, an toàn lao động, vệ sinh lao động theo quy định của Chính phủ.
Điều 137.
1- Người lao động có thể thoả
thuận với người sử dụng lao động để nhận việc về làm thường xuyên tại nhà mà vẫn
được hưởng nguyên quyền lợi như người đang làm việc tại doanh nghiệp.
2- Người lao động làm việc tại
nhà theo hình thức gia công không thuộc phạm vi áp dụng của Bộ luật này.
Điều 138.
Ở những nơi sử dụng dưới 10 người lao động, thì người sử dụng lao động vẫn
phải bảo đảm những quyền lợi cơ bản của người lao động theo quy định của Bộ luật
này, nhưng được giảm, miễn áp dụng một số tiêu chuẩn và thủ tục do Chính phủ
quy định.
Điều 139.
1- Người được thuê mướn để giúp
việc trong gia đình có thể giao kết hợp đồng lao động bằng miệng hoặc bằng văn
bản; nếu được thuê mướn để trông coi tài sản thì phải ký kết bằng văn bản.
2- Người sử dụng lao động phải
tôn trọng danh dự, nhân phẩm của người giúp việc gia đình, có trách nhiệm chăm
sóc khi người giúp việc bị ốm đau, tai nạn.
3- Tiền lương, thời giờ làm việc,
thời giờ nghỉ ngơi và các Khoản trợ cấp do hai bên thoả thuận khi giao kết hợp
đồng lao động. Người sử dụng lao động phải cấp tiền tàu xe đi đường khi người
giúp việc gia đình thôi việc về nơi cư trú, trừ trường hợp người giúp việc tự ý
thôi việc khi chưa hết thời hạn hợp đồng lao động.
Chương
12:
BẢO HIỂM XÃ HỘI
Điều 140.
1- Nhà
nước quy định chính sách về bảo hiểm xã hội nhằm từng bước mở rộng và nâng cao
việc bảo đảm vật chất, góp phần ổn định đời sống cho người lao động và gia đình
trong các trường hợp người lao động ốm đau, thai sản, hết tuổi lao động, chết,
bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, gặp rủi ro hoặc các khó
khăn khác.
2- Các loại hình bảo hiểm xã hội
bắt buộc hoặc tự nguyện được áp dụng đối với từng loại đối tượng và từng loại
doanh nghiệp để bảo đảm cho người lao động được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội
thích hợp.
Điều 141.
1- Loại
hình bảo hiểm xã hội bắt buộc được áp dụng đối với những doanh nghiệp sử dụng từ
10 người lao động trở lên. Ở những doanh nghiệp này, người sử dụng lao động,
người lao động phải đóng bảo hiểm xã hội theo quy định tại Điều 149 của Bộ luật
này và người lao động được hưởng các chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội ốm đau, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hưu trí và tử tuất.
2- Người lao động làm việc ở những
nơi sử dụng dưới 10 người lao động, hoặc làm những công việc thời hạn dưới ba
tháng, theo mùa vụ, hoặc làm các công việc có tính chất tạm thời khác, thì các Khoản
bảo hiểm xã hội được tính vào tiền lương do người sử dụng lao động trả để người
lao động tham gia bảo hiểm xã hội theo loại hình tự nguyện hoặc tự lo liệu về bảo
hiểm.
Điều 142.
1- Khi ốm đau, người lao động được
khám bệnh và Điều trị tại các cơ sở y tế theo chế độ bảo hiểm y tế.
2- Người lao động ốm đau có giấy
chứng nhận của thầy thuốc cho nghỉ việc để chữa bệnh tại nhà hoặc Điều trị tại
bệnh viện thì được trợ cấp ốm đau do quỹ bảo hiểm xã hội trả.
Mức trợ cấp ốm đau phụ thuộc Điều
kiện làm việc, mức và thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội do Chính phủ quy định.
Điều 143.
1- Trong thời gian người lao động
nghỉ việc để chữa trị vì tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, người sử dụng
lao động phải trả đủ lương và chi phí cho người lao động theo quy định tại Khoản 2 Điều 107 của Bộ luật này.
Sau khi Điều trị, tuỳ theo mức độ
suy giảm khả năng lao động do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, người lao động
được giám định và xếp hạng thương tật để hưởng trợ cấp một lần hoặc hàng tháng
do quỹ bảo hiểm xã hội trả.
2- Trong thời gian làm việc, nếu
người lao động bị chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thì thân nhân được
nhận chế độ tử tuất theo quy định tại Điều 146 của Bộ luật này
và được quỹ bảo hiểm xã hội trợ cấp thêm một lần bằng 24 tháng tiền lương tối
thiểu theo quy định của Chính phủ.
Điều 144.
1- Trong
thời gian nghỉ thai sản theo quy định tại Điều 114 của Bộ luật này, người lao động
nữ đã đóng bảo hiểm xã hội được trợ cấp bảo hiểm xã hội bằng 100% tiền lương và
được trợ cấp thêm một tháng lương, đối với trường hợp sinh con lần thứ nhất, thứ
hai.
2- Các chế độ khác của người lao
động nữ được áp dụng theo quy định tại Điều 117 của Bộ luật này.
Điều 145.
1- Người
lao động được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng khi có đủ Điều kiện về tuổi đời
và thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội như sau:
a) Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi.
Tuổi đời được hưởng chế độ hưu trí của những người làm các công việc nặng nhọc,
độc hại hoặc làm việc ở vùng cao, biên giới, hải đảo và một số trường hợp đặc
biệt khác do Chính phủ quy định;
b) Đã
đóng bảo hiểm xã hội 20 năm trở lên.
2- Trường hợp người lao động
không đủ Điều kiện quy định tại Khoản 1 Điều này, nhưng nếu có một trong các Điều
kiện sau đây thì cũng được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng với mức thấp hơn:
a) Người lao động đủ Điều kiện về
tuổi đời quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều này mà chưa đủ 20 năm đóng bảo hiểm
xã hội nhưng ít nhất đã có đủ 15 năm đóng bảo hiểm xã hội;
b) Người
lao động đã đóng bảo hiểm xã hội 20 năm trở lên chưa đủ Điều kiện về tuổi đời
nhưng ít nhất đã đủ 50 tuổi đối với nam, 45 tuổi đối với nữ mà bị suy giảm khả
năng lao động từ 61% trở lên;
c) Người lao động làm các công
việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại theo quy định của Chính phủ, đã đóng bảo hiểm
xã hội từ 20 năm trở lên mà bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.
3- Người lao động không đủ Điều
kiện hưởng chế độ hưu trí hàng tháng theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này,
thì được hưởng trợ cấp một lần.
4- Mức hưởng chế độ hưu trí hàng
tháng và trợ cấp một lần quy định tại các Khoản 1, Khoản 2
và 3 Điều này, phụ thuộc vào mức và thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội do
Chính phủ quy định.
Điều 146.
1- Người lao động đang làm việc,
người hưởng chế độ hưu trí, hưởng trợ cấp hàng tháng về mất sức lao động, tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp, khi chết thì người lo việc mai táng được nhận tiền
mai táng do Chính phủ quy định.
2- Người lao động bị tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, người đã đóng bảo hiểm xã hội 15 năm trở lên, người hưởng
chế độ hưu trí hàng tháng, chế độ trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp
hàng tháng, khi chết nếu có con chưa đủ 15 tuổi, vợ (hoặc chồng), bố, mẹ đã hết
tuổi lao động mà khi còn sống người đó đã trực tiếp nuôi dưỡng, thì những thân
nhân này được hưởng chế độ tuất hàng tháng. Trường hợp người chết không có thân
nhân đủ Điều kiện hưởng chế độ tuất hàng tháng hoặc chưa đóng bảo hiểm xã hội đủ
15 năm, thì gia đình được hưởng chế độ tuất một lần nhưng không quá 12 tháng
lương hoặc trợ cấp đang hưởng.
3- Người hưởng chế độ hưu trí,
chế độ trợ cấp mất sức lao động, chế độ trợ cấp tai nạn lao động hạng 1, hạng 2
hoặc bệnh nghề nghiệp hạng 1, hạng 2 trước ngày ban hành Bộ luật này, thì thực
hiện chế độ tử tuất theo quy định tại Điều này.
Điều 147.
1- Thời gian làm việc của người
lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước trước ngày Bộ luật này có hiệu lực, nếu
chưa nhận trợ cấp thôi việc hoặc trợ cấp một lần do quỹ bảo hiểm xã hội trả,
thì được tính là thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội.
2- Quyền lợi bảo hiểm của những
người đang hưởng chế độ hưu trí, hưởng trợ cấp hàng tháng về mất sức lao động,
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và tiền tuất trước ngày Bộ luật này có hiệu
lực vẫn được ngân sách Nhà nước tiếp tục bảo đảm và được Điều chỉnh phù hợp với
chế độ bảo hiểm xã hội hiện hành.
Điều 148.
Các doanh nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp,
diêm nghiệp có trách nhiệm tham gia các loại hình bảo hiểm xã hội, phù hợp với
đặc Điểm sản xuất và sử dụng lao động trong từng ngành theo Điều lệ bảo hiểm xã
hội.
Điều 149.
1- Quỹ bảo
hiểm xã hội được hình thành từ các nguồn sau đây:
a) Người sử dụng lao động đóng bằng
15% so với tổng quỹ tiền lương;
b) Người lao động đóng bằng 5%
tiền lương;
c) Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm
để bảo đảm thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao động;
d) Các nguồn khác.
2- Quỹ bảo hiểm xã hội được quản
lý thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước, hạch toán độc lập và được Nhà
nước bảo hộ. Quỹ bảo hiểm xã hội được thực hiện các biện pháp để bảo tồn giá trị
và tăng trưởng theo quy định của Chính phủ.
Điều 150.
Chính phủ ban hành Điều lệ bảo hiểm xã hội, thành lập hệ thống tổ chức bảo
hiểm xã hội, ban hành Quy chế về tổ chức, hoạt động của Quỹ bảo hiểm xã hội với
sự tham gia của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam.
Điều 151.
1- Người lao động tham gia bảo
hiểm xã hội được nhận các Khoản trợ cấp về bảo hiểm xã hội đầy đủ, thuận tiện
và đúng thời hạn.
2- Khi xảy ra
tranh chấp giữa người lao động và người sử dụng lao động về bảo hiểm xã hội thì
giải quyết theo các quy định tại Chương XIV của Bộ luật này. Nếu xảy ra tranh
chấp với cơ quan bảo hiểm xã hội, thì tranh chấp được giải quyết theo quy chế về
tổ chức, hoạt động của quỹ bảo hiểm xã hội.
Điều 152.
Nhà nước khuyến khích người lao động, công đoàn, người sử dụng lao động và
các tổ chức xã hội khác lập các quỹ tương trợ xã hội.
Chương
13:
CÔNG ĐOÀN
Điều 153.
1- Ở những
doanh nghiệp đang hoạt động chưa có tổ chức công đoàn thì chậm nhất sau sáu
tháng, kể từ ngày Bộ Luật Lao động có hiệu lực và ở những doanh nghiệp mới
thành lập thì chậm nhất sau sáu tháng, kể từ ngày doanh nghiệp bắt đầu hoạt động,
Liên đoàn lao động cấp tỉnh phải thành lập tổ chức công đoàn lâm thời tại doanh
nghiệp để đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động và tập thể lao động.
2- Hoạt động
của các tổ chức công đoàn lâm thời do Chính phủ phối hợp với Tổng liên đoàn lao
động Việt Nam quy định.
Điều 154.
1- Khi tổ chức công đoàn được
thành lập theo đúng Luật công đoàn, Điều lệ công đoàn thì người sử dụng lao động
phải thừa nhận tổ chức đó.
2- Người sử dụng lao động phải cộng
tác chặt chẽ và tạo Điều kiện thuận lợi để công đoàn hoạt động theo các quy định
của Bộ Luật Lao động và Luật Công đoàn.
3- Người sử dụng lao động không
được phân biệt đối xử vì lý do người lao động thành lập, gia nhập, hoạt động
công đoàn hoặc dùng các biện pháp kinh tế và các thủ đoạn khác để can thiệp vào
tổ chức và hoạt động của công đoàn.
Điều 155.
1- Người sử dụng lao động có
trách nhiệm bảo đảm các phương tiện làm việc cần thiết để công đoàn hoạt động.
2- Người lao động làm công tác
công đoàn không chuyên trách được sử dụng một số thời gian trong giờ làm việc để
làm công tác công đoàn và được người sử dụng lao động trả lương. Số thời gian này
tuỳ theo quy mô của doanh nghiệp và theo sự thoả thuận của người sử dụng lao động
và Ban chấp hành công đoàn cơ sở, nhưng ít nhất không được dưới ba ngày làm việc
trong một tháng.
3- Người làm công tác công đoàn
chuyên trách do quỹ công đoàn trả lương, được hưởng các quyền lợi và phúc lợi tập
thể như mọi người lao động trong doanh nghiệp, tuỳ theo quy chế doanh nghiệp hoặc
thoả ước tập thể.
4- Khi người sử dụng lao động quyết
định sa thải, đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người là uỷ viên Ban chấp
hành công đoàn cơ sở, thì phải có sự thoả thuận của Ban chấp hành công đoàn cơ
sở; nếu là Chủ tịch Ban chấp hành công đoàn cơ sở thì phải có sự thoả thuận của
tổ chức công đoàn cấp trên trực tiếp.
Điều 156. Tổng
liên đoàn lao động Việt Nam, công đoàn các cấp tham gia với các cơ quan Nhà nước
và đại diện của người sử dụng lao động bàn bạc, giải quyết các vấn đề về quan hệ
lao động; có quyền lập các tổ chức dịch vụ việc làm, dạy nghề, tương tế, tư vấn
pháp luật và các cơ sở phúc lợi chung cho người lao động và các quyền khác theo
quy định của Luật công đoàn và của Bộ luật này.
Chương
14:
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
LAO ĐỘNG
Điều 157.
1- Tranh chấp lao động là những
tranh chấp về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và
các Điều kiện lao động khác, về thực hiện hợp đồng lao động, thoả ước tập thể
và trong quá trình học nghề.
2- Tranh chấp lao động bao gồm
tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động và
tranh chấp tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động.
Điều 158.
Tranh chấp lao động được giải
quyết theo những nguyên tắc sau đây:
1- Thương lượng trực tiếp và tự
dàn xếp giữa hai bên tranh chấp tại nơi phát sinh tranh chấp;
2- Thông qua hoà giải, trọng tài
trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích của hai bên, tôn trọng lợi ích chung của
xã hội và tuân theo pháp luật;
3- Giải quyết công khai, khách
quan, kịp thời, nhanh chóng, đúng pháp luật;
4- Có sự tham gia của đại diện
công đoàn và của đại diện người sử dụng lao động trong quá trình giải quyết
tranh chấp.
Điều 159.
Việc giải quyết tranh chấp lao động tại các cơ quan, tổ chức giải quyết
tranh chấp lao động được tiến hành khi một bên từ chối thương lượng hoặc hai
bên đã thương lượng mà vẫn không giải quyết được và một hoặc hai bên có đơn yêu
cầu giải quyết tranh chấp lao động.
Điều 160.
1- Trong quá trình giải quyết
tranh chấp lao động các bên tranh chấp có quyền:
a) Trực tiếp hoặc thông qua người
đại diện của mình để tham gia quá trình giải quyết tranh chấp;
b) Rút đơn hoặc thay đổi nội
dung tranh chấp;
c) Yêu cầu thay người trực tiếp
tiến hành giải quyết tranh chấp, nếu có lý do chính đáng cho rằng người đó
không thể bảo đảm tính khách quan, công bằng trong việc giải quyết tranh chấp.
2- Trong quá trình giải quyết
tranh chấp lao động, các bên tranh chấp có nghĩa vụ:
a) Cung cấp đầy đủ các tài liệu,
chứng cứ theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp lao động;
b) Nghiêm chỉnh chấp hành các
thoả thuận đã đạt được, biên bản hoà giải thành, quyết định đã có hiệu lực của
cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp lao động, bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực của Toà án nhân dân.
Điều 161.
Cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp lao động trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình có quyền yêu cầu các bên tranh chấp lao động, các cơ quan, tổ chức,
cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu, chứng cứ; trưng cầu giám định, mời nhân chứng
và người có liên quan trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động.
Mục I: THẨM
QUYỀN VÀ TRÌNH TỰ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG CÁ NHÂN
Điều 162.
Các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân gồm:
1- Hội đồng hoà giải lao động cơ
sở hoặc hoà giải viên lao động của cơ quan lao động quận,
huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) đối với
những nơi không có Hội đồng hoà giải lao động cơ sở;
2- Toà án nhân dân.
Điều 163.
1- Hội đồng
hoà giải lao động cơ sở được thành lập trong các doanh nghiệp sử dụng từ 10 người
lao động trở lên, gồm số đại diện ngang nhau của bên người lao động và bên người
sử dụng lao động. Số lượng thành viên của Hội đồng do hai bên thoả thuận.
2- Nhiệm kỳ của Hội đồng hoà giải
lao động cơ sở là hai năm. Đại diện của mỗi bên luân phiên làm Chủ tịch và thư
ký Hội đồng. Hội đồng hoà giải lao động cơ sở làm việc theo nguyên tắc thoả thuận
và nhất trí.
3- Người sử dụng lao động bảo đảm
Điều kiện cần thiết cho hoạt động của Hội đồng hoà giải lao động cơ sở.
Điều 164.
Trình tự hoà giải tranh chấp lao động cá nhân được quy định như sau:
1- Hội đồng hoà giải lao động cơ
sở tiến hành hoà giải chậm nhất bảy ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu hoà
giải. Tại phiên họp hoà giải, phải có mặt hai bên tranh chấp hoặc đại diện được
uỷ quyền của họ.
2- Hội đồng
hoà giải lao động cơ sở đưa ra phương án hoà giải để các bên xem xét. Nếu hai
bên chấp nhận phương án hoà giải thì lập biên bản hoà giải thành, có chữ ký của
hai bên tranh chấp, của Chủ tịch và thư ký Hội đồng hoà giải lao động cơ sở. Hai
bên có nghĩa vụ chấp hành các thoả thuận ghi trong biên bản hoà giải thành.
3- Trong trường
hợp hoà giải không thành, thì Hội đồng hoà giải lao động cơ sở lập biên bản hoà
giải không thành, ghi ý kiến của hai bên tranh chấp và của Hội đồng, có chữ ký
của hai bên tranh chấp, của Chủ tịch và thư ký Hội đồng. Bản sao biên bản phải
được gửi cho hai bên tranh chấp trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày hoà giải
không thành. Mỗi bên tranh chấp đều có quyền yêu cầu Toà án nhân dân cấp huyện
xét xử tranh chấp. Hồ sơ gửi Toà án nhân dân phải kèm theo biên bản hoà giải
không thành.
Điều 165.
1- Hoà giải
viên lao động tiến hành việc hoà giải theo trình tự quy định tại Điều 164 của Bộ luật này đối với các
tranh chấp lao động cá nhân tại các doanh nghiệp sử dụng dưới 10 người lao động,
tranh chấp giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động, tranh chấp
về thực hiện hợp đồng học nghề và phí dạy nghề.
2- Hoà giải viên lao động phải
tiến hành việc hoà giải chậm nhất bảy ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu
hoà giải.
Điều 166.
1- Toà
án nhân dân cấp huyện giải quyết các tranh chấp lao động cá nhân mà Hội đồng
hoà giải lao động cơ sở hoặc hoà giải viên lao động hoà giải không thành, khi
có đơn yêu cầu của một hoặc hai bên tranh chấp.
2- Những tranh chấp lao động cá nhân
sau đây có thể yêu cầu Toà án nhân dân cấp huyện giải quyết, không nhất thiết
phải qua hoà giải tại cơ sở:
a) Tranh
chấp về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc về trường hợp bị đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động;
b) Tranh chấp về bồi thường thiệt
hại cho người sử dụng lao động.
3- Người lao động được miễn án
phí trong các hoạt động tố tụng để đòi tiền lương, bảo hiểm xã hội, tiền bồi
thường về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, để giải quyết vấn đề bồi thường
thiệt hại hoặc vì bị sa thải, chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.
Điều 167.
Thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động cá
nhân, kể từ ngày mỗi bên tranh chấp cho rằng quyền, lợi ích của mình bị vi phạm
được quy định như sau:
1- Một năm đối với các tranh chấp
lao động quy định tại Khoản 2 Điều 166 của Bộ luật này;
2- Sáu tháng đối với các loại
tranh chấp lao động khác.
Mục II: THẨM
QUYỀN VÀ TRÌNH TỰ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG TẬP THỂ
Điều 168.
Các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể gồm:
1- Hội đồng hoà giải lao động cơ
sở hoặc hoà giải viên lao động của cơ quan lao động cấp huyện nơi không có Hội
đồng hoà giải lao động cơ sở;
2- Hội đồng trọng tài lao động cấp
tỉnh;
3- Toà án nhân dân.
Điều 169.
1- Hội đồng hoà giải lao động cơ
sở quy định tại Điều 163 của Bộ luật này có thẩm quyền hoà
giải cả những vụ tranh chấp lao động tập thể.
2- Hội đồng trọng tài lao động cấp
tỉnh gồm các thành viên chuyên trách và kiêm chức là đại diện của cơ quan lao động,
đại diện của công đoàn, đại diện của những người sử dụng lao động và một số luật
gia, nhà quản lý, nhà hoạt động xã hội có uy tín ở địa phương. Thành phần Hội đồng
trọng tài lao động cấp tỉnh được hình thành theo số lẻ, tối đa không được quá
chín người, do đại diện cơ quan lao động cấp tỉnh làm Chủ
tịch.
Nhiệm kỳ của Hội đồng trọng tài
lao động là ba năm.
Hội đồng trọng tài lao động quyết
định theo nguyên tắc đa số, bằng cách bỏ phiếu kín.
Cơ quan lao động
cấp tỉnh bảo đảm Điều kiện cần thiết cho hoạt động của Hội đồng trọng tài
lao động.
Điều 170.
Trình tự hoà giải tranh chấp lao động tập thể được quy định như sau:
1- Hội đồng hoà giải lao động cơ
sở hoặc hoà giải viên lao động tiến hành hoà giải chậm nhất bảy ngày, kể từ
ngày nhận đơn yêu cầu hoà giải. Tại phiên họp hoà giải, phải có mặt hai bên
tranh chấp hoặc đại diện được uỷ quyền của họ.
2- Hội đồng hoà giải lao động cơ
sở hoặc hoà giải viên lao động đưa ra phương án hoà giải để các bên xem xét. Nếu
hai bên chấp nhận phương án hoà giải thì lập biên bản hoà giải thành, có chữ ký
của hai bên tranh chấp, của Chủ tịch và thư ký Hội đồng hoà giải lao động cơ sở
hoặc của hoà giải viên lao động. Hai bên có nghĩa vụ chấp hành các thoả thuận
ghi trong biên bản hoà giải thành.
3- Trong trường hợp hoà giải
không thành, thì Hội đồng hoà giải lao động cơ sở hoặc hoà giải viên lao động lập
biên bản hoà giải không thành, ghi ý kiến của hai bên tranh chấp và của Hội đồng
hoặc của hoà giải viên lao động, có chữ ký của hai bên tranh chấp, của Chủ tịch
và thư ký Hội đồng hoặc của hoà giải viên lao động; mỗi bên hoặc cả hai bên
tranh chấp có quyền yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động cấp tỉnh giải quyết.
Điều 171.
1- Hội đồng trọng tài lao động
tiến hành hoà giải và giải quyết vụ tranh chấp lao động tập thể chậm nhất 10
ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
Tại phiên họp giải quyết tranh
chấp lao động tập thể, phải có mặt các đại diện được uỷ quyền của hai bên tranh
chấp. Trường hợp cần thiết, Hội đồng trọng tài lao động mời đại diện công đoàn
cấp trên của công đoàn cơ sở và đại diện cơ quan Nhà nước hữu quan tham dự
phiên họp.
2- Hội đồng trọng tài lao động
đưa ra phương án hoà giải để hai bên xem xét. Trong trường hợp hai bên nhất trí
thì lập biên bản hoà giải thành, có chữ ký của hai bên tranh chấp, của Chủ tịch
Hội đồng trọng tài lao động. Hai bên có nghĩa vụ chấp hành các thoả thuận ghi
trong biên bản hoà giải thành.
3- Trong trường hợp hoà giải
không thành, thì Hội đồng trọng tài lao động giải quyết vụ tranh chấp và thông
báo ngay quyết định của mình cho hai bên tranh chấp; nếu hai bên không có ý kiến
thì quyết định đó đương nhiên có hiệu lực thi hành.
Điều 172.
1- Trong trường hợp tập thể lao
động không đồng ý với quyết định của Hội đồng trọng tài lao động, thì có quyền
yêu cầu Toà án nhân dân giải quyết hoặc đình công.
2- Trong trường
hợp người sử dụng lao động không đồng ý với quyết định của Hội đồng trọng tài
lao động, thì có quyền yêu cầu Toà án nhân dân xét lại quyết định của Hội đồng
trọng tài. Việc người sử dụng lao động yêu cầu Toà án nhân dân xét lại quyết định
của Hội đồng trọng tài không cản trở quyền đình công của tập thể lao động.
Điều 173.
1- Trong khi Hội đồng hoà giải
lao động, Hội đồng trọng tài lao động đang tiến hành việc giải quyết tranh chấp
lao động, thì không bên nào được hành động đơn phương chống lại bên kia.
2- Việc
đình công do Ban chấp hành công đoàn cơ sở quyết định sau khi được quá nửa tập
thể lao động tán thành bằng cách bỏ phiếu kín hoặc lấy chữ ký.
Ban chấp hành công đoàn cơ sở cử
đại diện, nhiều nhất là ba người, để trao bản yêu cầu cho người sử dụng lao động,
đồng thời gửi một bản thông báo cho cơ quan lao động cấp tỉnh, một bản thông
báo cho Liên đoàn lao động cấp tỉnh. Trong bản yêu cầu và bản thông báo, phải
nêu rõ các vấn đề bất đồng, nội dung yêu cầu giải quyết, kết quả bỏ phiếu hoặc
lấy chữ ký tán thành đình công và thời Điểm bắt đầu đình công.
3- Nghiêm cấm các hành vi bạo lực,
hành vi làm tổn hại máy, thiết bị, tài sản của doanh nghiệp, các hành vi xâm phạm
trật tự, an toàn công cộng trong khi đình công.
Điều 174.
Không được đình công ở một số
doanh nghiệp phục vụ công cộng và doanh nghiệp thiết yếu cho nền kinh tế quốc
dân hoặc an ninh, quốc phòng theo danh Mục do Chính phủ quy định.
Các cơ quan quản lý Nhà nước phải
định kỳ tổ chức nghe ý kiến của đại diện tập thể lao động và người sử dụng lao
động ở các doanh nghiệp này để kịp thời giúp đỡ và giải quyết những yêu cầu
chính đáng của tập thể lao động. Trong trường hợp có tranh chấp lao động tập thể,
thì do Hội đồng trọng tài lao động cấp tỉnh giải quyết. Nếu một trong hai bên
không đồng ý với quyết định của Hội đồng trọng tài lao động, thì có quyền yêu cầu
Toà án nhân dân giải quyết.
Điều 175.
Trong trường hợp xét thấy đình công có nguy cơ nghiêm trọng cho nền kinh tế
quốc dân hoặc an toàn công cộng, Thủ tướng Chính phủ có quyền quyết định hoãn
hoặc ngừng cuộc đình công.
Điều 176.
1- Những cuộc đình công sau đây
là bất hợp pháp:
a) Không phát sinh từ tranh chấp
lao động tập thể; vượt ra ngoài phạm vi quan hệ lao động;
b) Vượt ra ngoài phạm vi doanh
nghiệp;
c) Vi phạm các quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 173 và Điều 174 của Bộ luật này.
2- Việc kết
luận cuộc đình công hợp pháp hay bất hợp pháp thuộc thẩm quyền của Toà án nhân
dân.
Điều 177.
Toà án nhân dân có quyền quyết định cuối cùng về những cuộc đình công và
tranh chấp lao động tập thể.
Điều 178.
1- Nghiêm cấm mọi hành vi trù dập,
trả thù người tham gia đình công hoặc lãnh đạo cuộc đình công.
2- Người cản trở việc thực hiện
quyền đình công hoặc ép buộc người khác đình công, người có hành vi bất hợp
pháp trong khi đình công, người không thi hành quyết định của Thủ tướng Chính
phủ, quyết định của Toà án nhân dân, thì tuỳ theo mức độ vi phạm, phải bồi thường
thiệt hại, bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Điều 179.
Việc giải quyết các cuộc đình công và các vụ án lao động do Uỷ ban thường vụ
Quốc hội quy định.
Chương
15:
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LAO
ĐỘNG
Điều 180.
Quản lý Nhà nước về lao động bao
gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
1- Nắm cung cầu và sự biến động cung
cầu lao động làm cơ sở để quyết định chính sách quốc gia, quy hoạch, kế hoạch về
nguồn nhân lực, phân bố và sử dụng lao động toàn xã hội;
2- Ban hành và hướng dẫn thi
hành các văn bản pháp luật lao động;
3- Xây dựng và tổ chức thực hiện
các chương trình quốc gia về việc làm, di dân xây dựng các vùng kinh tế mới,
đưa người đi làm việc ở nước ngoài;
4- Quyết định
các chính sách về tiền lương, bảo hiểm xã hội, an toàn lao động, vệ sinh lao động
và các chính sách khác về lao động và xã hội; về xây dựng mối quan hệ lao động
trong các doanh nghiệp;
5- Tổ chức và tiến hành nghiên cứu
khoa học về lao động, thống kê, thông tin về lao động và thị trường lao động, về
mức sống, thu nhập của người lao động;
6- Thanh tra, kiểm tra việc thi
hành pháp luật lao động và xử lý các vi phạm pháp luật lao động, giải quyết các
tranh chấp lao động theo quy định của Bộ luật này;
7- Mở rộng quan hệ hợp tác quốc
tế với nước ngoài và các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực lao động.
Điều 181.
1- Chính
phủ thống nhất quản lý Nhà nước về lao động trong phạm vi cả nước.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội thực hiện quản lý Nhà nước về lao động đối với các ngành và các địa phương
trong cả nước.
2- Uỷ ban
nhân dân các cấp thực hiện quản lý Nhà nước về lao động trong phạm vi địa phương
mình. Cơ quan lao động địa phương giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý Nhà nước
về lao động theo sự phân cấp của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
3- Tổng liên đoàn lao động Việt
Nam và công đoàn các cấp tham gia giám sát việc quản lý Nhà nước về lao động
theo quy định của pháp luật.
4- Nhà nước tạo
Điều kiện cho người sử dụng lao động được tham gia ý kiến với các cơ quan Nhà
nước về các vấn đề quản lý và sử dụng lao động.
Điều 182.
Trong thời
hạn 30 ngày, kể từ ngày doanh nghiệp bắt đầu hoạt động, người sử dụng lao động
phải khai trình việc sử dụng lao động và trong quá trình hoạt động phải báo cáo
tình hình thay đổi về nhân công với cơ quan lao động địa phương theo quy định của
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày doanh
nghiệp chấm dứt hoạt động, người sử dụng lao động phải báo cáo với cơ quan lao
động địa phương về việc chấm dứt sử dụng lao động.
Nơi sử dụng từ 10 người lao động
trở lên, thì người sử dụng lao động phải lập sổ lao động, sổ lương, sổ bảo hiểm
xã hội.
Điều 183.
Người lao động được cấp sổ lao động, sổ lương và sổ
bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật.
Điều 184.
1- Việc
đưa công dân Việt Nam ra nước ngoài làm việc phải có giấy phép của Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác theo quy định
của pháp luật.
Nghiêm cấm việc đưa người ra nước
ngoài làm việc trái pháp luật.
2- Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài vào Việt
Nam để làm việc cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc cho các
doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài tại Việt Nam quy định tại Điều 133 của Bộ luật này theo đơn
yêu cầu của đương sự và của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có yêu cầu sử dụng
lao động.
Chương
16:
THANH TRA NHÀ NƯỚC VỀ
LAO ĐỘNG, XỬ PHẠT VI PHẠM PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG
Mục I:
THANH TRA NHÀ NƯỚC VỀ LAO ĐỘNG
Điều 185
Thanh
tra Nhà nước về lao động bao gồm Thanh tra lao động, Thanh tra an toàn lao động
và Thanh tra vệ sinh lao động.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội và các cơ quan lao động địa phương thực hiện thanh tra lao động và thanh
tra an toàn lao động. Bộ Y tế và các cơ quan y tế địa phương thực hiện thanh
tra vệ sinh lao động.
Điều 186
Thanh
tra Nhà nước về lao động có các nhiệm vụ chính sau đây:
1- Thanh tra việc chấp hành các
quy định về lao động, an toàn lao động và vệ sinh lao động;
2- Điều tra tai nạn lao động và
những vi phạm tiêu chuẩn vệ sinh lao động;
3- Xem xét, chấp thuận các tiêu
chuẩn an toàn lao động, các giải pháp an toàn lao động trong các luận chứng
kinh tế - kỹ thuật, các đề án thiết kế; đăng ký và cho phép đưa vào sử dụng những
máy, thiết bị, vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động thuộc danh Mục
do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định;
4- Tham gia xem xét chấp thuận địa
điểm, các giải pháp vệ sinh lao động khi xây dựng mới hoặc mở rộng, cải tạo cơ
sở để sản xuất, sử dụng, bảo quản, lưu giữ và tàng trữ các chất phóng xạ, chất
độc thuộc danh Mục do Bộ Y tế quy định;
5- Giải quyết
các khiếu nại, tố cáo của người lao động về vi phạm pháp luật lao động;
6- Quyết định xử lý các vi phạm
pháp luật lao động theo thẩm quyền của mình và kiến nghị các cơ quan có thẩm
quyền xử lý các vi phạm thuộc thẩm quyền xử lý của các cơ quan đó.
Điều 187.
Khi tiến hành thanh tra, Thanh tra viên lao động có quyền:
1- Thanh tra, Điều tra những nơi
thuộc đối tượng, phạm vi thanh tra được giao bất cứ lúc nào mà không cần báo
trước;
2- Yêu cầu người sử dụng lao động
và những người có liên quan khác cung cấp tình hình và các tài liệu liên quan đến
việc thanh tra, Điều tra;
3- Tiếp nhận và giải quyết các
khiếu nại, tố cáo về vi phạm pháp luật lao động theo quy định của pháp luật;
4- Quyết định tạm đình chỉ việc
sử dụng máy, thiết bị, nơi làm việc có nguy cơ gây tai nạn lao động, gây ô nhiễm
nghiêm trọng môi trường lao động và chịu trách nhiệm về quyết định đó, đồng thời
báo cáo ngay cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Điều 188.
Thanh tra viên lao động phải là người không có lợi ích cá nhân liên quan trực
tiếp hoặc gián tiếp với đối tượng thuộc phạm vi thanh tra. Thanh tra viên lao động,
kể cả khi đã thôi việc, không được tiết lộ những bí mật biết được trong khi thi
hành công vụ và phải tuyệt đối giữ kín mọi nguồn tố cáo.
Điều 189.
Khi tiến hành thanh tra, Thanh tra viên lao động phải cộng tác chặt chẽ với
Ban chấp hành công đoàn. Nếu vụ việc có liên quan đến các lĩnh vực khoa học, kỹ
thuật, chuyên môn, nghiệp vụ, Thanh tra viên lao động có thể mời các chuyên
gia, các kỹ thuật viên lành nghề về lĩnh vực hữu quan làm tư vấn; khi khám xét
máy, thiết bị, kho tàng, phải có mặt người sử dụng lao động và người trực tiếp
phụ trách máy, thiết bị, kho tàng.
Điều 190.
Thanh tra viên lao động trực tiếp
giao quyết định cho đương sự, trong quyết định phải ghi rõ ngày quyết định bắt
đầu có hiệu lực, ngày phải thi hành xong, nếu cần thiết ghi cả ngày phúc tra.
Quyết định của Thanh tra viên
lao động có hiệu lực bắt buộc thi hành.
Người nhận quyết định có quyền
khiếu nại với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, nhưng vẫn phải nghiêm chỉnh chấp
hành quyết định của Thanh tra viên lao động.
Điều 191.
1- Chính phủ quy định tổ chức và
hoạt động của Thanh tra Nhà nước về lao động.
2- Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế có trách nhiệm lập hệ thống tổ chức thanh
tra Nhà nước về lao động thuộc thẩm quyền và chức năng của mình; quy định tiêu
chuẩn tuyển chọn, bổ nhiệm, thuyên chuyển, miễn nhiệm, cách chức thanh tra
viên; cấp thẻ thanh tra viên; quy định chế độ báo cáo định kỳ, đột xuất và các
chế độ, thủ tục cần thiết khác.
3- Việc thanh tra an toàn lao động,
thanh tra vệ sinh lao động trong các lĩnh vực: phóng xạ, thăm dò, khai thác dầu
khí, các phương tiện vận tải đường sắt, đường thuỷ, đường bộ, đường hàng không
và các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang do các cơ quan quản lý ngành đó thực hiện
với sự phối hợp của Thanh tra Nhà nước về lao động.
Mục II: XỬ
PHẠT VI PHẠM PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG
Điều 192.
Người nào có hành vi vi phạm các quy định của Bộ luật này, thì tuỳ mức độ
vi phạm mà bị xử phạt bằng các hình thức cảnh cáo, phạt tiền, đình chỉ hoặc thu
hồi giấy phép, buộc phải bồi thường, buộc đóng cửa doanh nghiệp hoặc bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Điều 193.
Người nào có hành vi cản trở, mua chuộc, trả thù những người có thẩm quyền
theo Bộ luật này trong khi họ thi hành công vụ thì tuỳ mức độ vi phạm mà bị xử
lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định
của pháp luật.
Điều 194.
Các chủ sở hữu doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm dân sự đối với những quyết
định của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử phạt giám đốc, người quản lý hoặc
người đại diện hợp pháp cho doanh nghiệp đối với những vi phạm pháp luật lao động
trong quá trình Điều hành quản lý lao động theo quy định của pháp luật. Trách
nhiệm bồi hoàn của những người này đối với doanh nghiệp được xử lý theo quy chế,
Điều lệ của doanh nghiệp, hợp đồng trách nhiệm giữa các bên đã ký kết hoặc theo
quy định của pháp luật.
Điều 195.
Chính phủ quy định việc xử phạt hành chính đối với
hành vi vi phạm pháp luật lao động.
Chương
17:
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 196.
Những quy định của Bộ luật này được áp dụng đối với các hợp đồng lao động,
thoả ước tập thể và những thoả thuận hợp pháp khác đã giao kết trước ngày Bộ luật
có hiệu lực. Những thoả thuận có lợi hơn cho người lao động so với những quy định
của Bộ luật này vẫn được tiếp tục thi hành. Những thoả thuận không phù hợp với
những quy định của Bộ luật phải sửa đổi, bổ sung.
Điều 197.
Bộ luật này có hiệu lực kể từ
ngày 01 tháng 01 năm 1995.
Những quy định trước đây trái với
Bộ luật này đều bãi bỏ.
Điều 198.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Bộ luật này.
Bộ luật này đã được Quốc hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 23
tháng 6 năm 1994.