Hiện nay, pháp luật về đấu thầu nước ta không có quy định cấm không được sử dụng nhân lực thi công giống nhau trong các dự án của nhà thầu, nếu nhà thầu tại thời điểm ký kết bảo đảm đáp ứng yêu cầu về năng lực kỹ thuật, tài chính để thực hiện gói thầu theo khoản 2 Điều 64 Luật Đấu thầu 2013 và khoản 2 Điều 7 Nghị định 06/2021/NĐ-CP về quản lý chất lượng, thi công xây dựng và bảo trì công trình xây dựng:
“Các nhà thầu quy định tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều này khi tham gia hoạt động xây dựng phải có đủ điều kiện năng lực theo quy định, chịu trách nhiệm trực tiếp, toàn diện về chất lượng và an toàn đối với các công việc do mình thực hiện trước pháp luật, trước chủ đầu tư và trước nhà thầu chính trong trường hợp là nhà thầu phụ. Nhà thầu chính phải chịu trách nhiệm trước chủ đầu tư về các công việc do nhà thầu phụ thực hiện.”.
Theo đó, trường hợp nhà thầu tham dự nhiều gói thầu trong cùng một thời điểm và nhân sự mà nhà thầu đề xuất cho các gói thầu này là trùng nhau thì hồ sơ dự thầu của nhà thầu vẫn được xem xét, đánh giá.
Và nếu nhà thầu được xếp hạng thứ nhất ở nhiều hơn một gói thầu và thời gian huy động nhân sự để thực hiện các gói thầu này là trùng lặp, không bảo đảm huy động được đầy đủ nhân sự, thiết bị theo đúng tiến độ, yêu cầu của gói thầu thì được coi là tình huống phát sinh trong đấu thầu.
Theo quy định tại Khoản 15 Điều 117 Nghị định 63/2014/NĐ-CP và chủ đầu tư chịu trách nhiệm xem xét, xử lý tình huống theo hướng cho phép nhà thầu được lựa chọn một trong những gói thầu mà nhà thầu xếp hạng thứ nhất để vào thương thảo hợp đồng.
Nhà thầu thi công có trách nhiệm bố trí cán bộ chuyên trách hoặc kiêm nhiệm làm công tác an toàn, vệ sinh lao động theo quy định tại khoản 6 Điều 34 Nghị định 59/2015/NĐ-CP về quản lý dự án đầu tư xây dựng. Nếu phát hiện sai phạm thì xử lý theo quy định của hồ sơ hợp đồng dự thầu mà chủ đầu tư và nhà thầu đã thỏa thuận.
Chủ đầu tư chịu trách nhiệm xử lý tình huống trong đấu thầu trên cơ sở bảo đảm cạnh tranh, công bằng, minh bạch, hiệu quả kinh tế và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình (Điều 86 Luật Đấu thầu và Khoản 11 Điều 117 Nghị định 63/2014/NĐ-CP).