Theo quy định pháp luật thì một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai vợ chồng. Nhưng trong trường hợp công dân Việt Nam và người nước ngoài muốn nhận cùng một người làm con nuôi thì ai sẽ được ưu tiên nhận người đó làm con nuôi?
1. Nuôi con nuôi là gì?
Theo khoản 1 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi 2010 thì nuôi con nuôi được hiểu là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi. Theo đó, một người nhận người khác làm con nuôi sẽ được gọi là người nhận con nuôi và một người nhận người khác làm cha mẹ nuôi thì được gọi là người được nhận làm con nuôi.
2. Thứ tự ưu tiên chọn gia đình thay thế
Trường hợp công dân Việt Nam và người nước ngoài muốn nhận một người làm con nuôi thì sẽ xem xét thứ tự ưu tiên chọn gia đình thay thế cho trẻ em. Theo khoản 1 Điều 5 Luật Nuôi con nuôi 2010 thì thứ tự ưu tiên chọn gia đình thay thế được thực hiện như sau:
- Cha dượng, mẹ kế, cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi;
- Công dân Việt Nam thường trú ở trong nước;
- Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam;
- Công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài;
- Người nước ngoài thường trú ở nước ngoài.
Như vậy, công dân Việt Nam sẽ được ưu tiên nhận trẻ làm con nuôi. Tuy nhiên, nếu người nước ngoài là cha dượng, mẹ kế, cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi thì sẽ được ưu tiên nhận con nuôi. Ngoài ra, nếu cả hai đều là cha dượng, mẹ kế, cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi sẽ xem xét, giải quyết cho người có điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con nuôi tốt nhất (khoản 2 Điều 5 Luật Nuôi con nuôi 2010).
3. Điều kiện của người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi
Đối với người được nhận làm con nuôi thì cần đáp ứng điều kiện (Điều 8 Luật Nuôi con nuôi 2010):
- Trẻ em dưới 16 tuổi. Ngoài ra, người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi sẽ được nhận làm con nuôi nếu được cha dượng, mẹ kế, cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.
- Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng.
Đối với người nhận con nuôi cần đáp ứng đủ các điều kiện sau (Điều 14 Luật Nuôi con nuôi 2010):
- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
- Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên. Trong trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không cần đáp ứng điều kiện này;
- Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi. Tương tự điều kiện về độ tuổi, thì cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không cần thỏa điều kiện này;
- Có tư cách đạo đức tốt.
Ngoài ra, nếu công dân Việt Nam, người nước ngoài thuộc một trong các trường hợp sau đây thì sẽ không được nhận con nuôi (Khoản 2 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi 2010):
- Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên;
- Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh;
- Đang chấp hành hình phạt tù;
- Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.
Như vậy, trong trường hợp cả công dân Việt Nam và người nước ngoài đều muốn nhận một người làm con nuôi thì sẽ dựa vào thứ tự ưu tiên tìm gia đình thay thế cho trẻ. Trong đó, công dân Việt Nam sẽ được ưu tiên nhận con nuôi. Tuy nhiên, nếu người nước là cha dượng, mẹ kế, cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi thì sẽ được ưu tiên nhận người đó làm con nuôi. Còn trường hợp cả hai đều là cha dượng, mẹ kế, cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi sẽ xem xét, giải quyết cho người có điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con nuôi tốt nhất.