19/04/2022 17:20

Rút kinh nghiệm vụ án Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất

Rút kinh nghiệm vụ án Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất

Ngày 04/4/2022, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng có Thông báo rút kinh nghiệm số 25/TB-VC2-V2 về vụ án "Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất" giữa nguyên đơn là ông P (con ông V, bà L) và bị đơn là ông V , bà L.

1. Nội dung vụ án

Nguyên đơn ông P trình bày:

Về nguồn gốc của thửa đất số 230a, số 89, tờ bản đồ số 01 có được là từ việc ông V, bà L mua của các hộ khác từ năm 1993 và năm 1998, đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày 20/05/2002, ông V, bà L xác lập hợp đồng tặng cho con trai của mình là ông P toàn bộ hai thửa đất nêu trên, hợp đồng được xác lập dưới tên gọi “Đơn sang nhượng đất", ông V, bà L là người trực tiếp xác lập và ký dưới mục người làm đơn, có xác nhận của địa chính và Ủy ban nhân dân xã E. Kể từ thời điểm năm 2002 cho đến nay, vợ chồng ông P đã làm nhà, trồng các loại cây lâu năm trên đất, không ai có ý kiến gì về việc tặng cho, Mặc dù, nhiều lần ông P yêu cầu ông V, bà L giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thực hiện thủ tục sang tên nhưng cho đến nay ông P vẫn chưa được đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với đất tặng cho, Do vậy, ông P khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng tặng cho được xác lập ngày 20/05/2002, buộc ông V, bà L tiếp tục thực hiện hợp đồng.

Bị đơn ông V, bà L trình bày:

Ông V, bà L không đồng ý đối với trình bày của nguyên đơn cho rằng Đơn sang nhượng đề ngày 20/05/2002 là hợp đồng tặng cho, mà đây là hợp đồng chuyển nhượng giữa ông V, bà L với ông P nhưng chưa thống nhất về giá. Do ông P không trả tiền và ông P không thực hiện theo yêu cầu của ông V, bà L nên không thực hiện việc sang tên cho ông P. Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn xác định đây là hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, nhưng do ông P, bà T bất hiếu, đối xử với bố mẹ không ra gì, không làm tròn bổn phận của một người con nên ông V, bà L không đồng ý tặng cho nữa. Mặt khác, đây là đất của hộ gia đình nhwung chưa có sự đồng ý của ông T, ông n (là các con của ông V, bà L) nên "Đơn sang nhương đất" để ngày 20/05/2002 là không đúng theo quy định, hiện nay ông V, bà l không đồng ý không tiếp tục tặng cho ông P.

2 . Những vấn đề cần rút kinh nghiệm

Ông V, bà L tặng cho quyền sử dụng đất cho con trai là ông P bằng giấy viết tay “Đơn sang nhượng đất” có nội dung: “Tôi có thổ đất sổ sổ BI50370 và D0451911. Nay tôi chuyển nhượng cho con là Phương... với diện tích 1.000m: Phía Đông rộng 20m giáp đường 8m; Phía Bắc dài 50m giáp ông Việt; Phía Tây rộng 20m giáp anh Nam và anh Hưng, Phía Nam dài 50m giáp chị Liên”. Mặc dù không ghi rõ tên số thửa đất nhưng có ghi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B150373 và D0451911, có tứ cận và diện tích rõ ràng. Trong giấy sang nhượng không có các bên không thỏa thuận về điều kiện tặng cho quyền sử dụng đất. Ông V cho rằng ông P, bà T không làm tròn bổn phận của người con, nên ông V không đồng ý tặng cho đất nữa nhưng ông V, bà L cũng không cung cấp được tài liệu về việc các bên thỏa thuận về điều kiện tặng cho.

Mặt khác, sau khi tặng cho đất, phía bị đơn đã nhiều lần thế chấp 02 thửa đất để vay tiền tại Ngân hàng nên phía nguyên đơn chưa làm thủ tục chỉnh lý sang tên được. Ông P, bà T cũng khai trong suốt quá trình giải quyết vụ án, vì tin tưởng bố mẹ nên chờ con cải lớn sẽ làm thủ tục sang tên cho con luôn. Đồng thời, hiện nay ông P bị tai nạn và không có khả năng lao động, hoàn cảnh gia đình khó khăn.

Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, công nhận hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất được lập ngày 20/05/2002 là có căn cứ.

Xem chi tiết tại: Thông báo 25/TB-VC2-V2 ngày 04/4/2022 dưới file đính kèm.

Như Ý
1955

Đây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email: info@thuvienphapluat.vn