26/02/2021 11:43

07 bản án về hợp đồng liên quan tới người không biết chữ

07 bản án về hợp đồng liên quan tới người không biết chữ

Cuộc sống hiện giờ đã có nhiều tiến bộ, dân trí được nâng cao nhưng chúng ta vẫn có thể gặp trường hợp người không biết chữ tham gia vào giao dịch dân sự. Vậy khi xảy ra tranh chấp, tòa án sẽ xét xử như thế nào đối với những giao dịch dân sự như thế này?

1. Bản án 06/2018/DS-PT ngày 16/01/2018 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản

+ Cấp xét xử: Phúc thẩm.

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Lâm Đồng

+ Tóm tắt nội dung: Năm 2002, ông K’H có nhiều lần vay của bà Th mua phân bón, mua thuốc trừ sâu, mua hàng tạp hóa còn nợ của bà số tiền 157.500.000đ. Đến ngày 26/8/2014 giữa bà và ông K’H chốt nợ và có viết giấy nợ với nội dung ông  K’H và bà Ka M còn nợ bà số tiền 157.500.000đ, ông K’H, bà Ka M hứa sẽ trả cho bà càng sớm càng tốt, bà viết xong thì ông K’H ký vào giấy nợ tiền nói trên. Đến ngày 22/01/2016, vợ chồng ông K’H, bà Ka M trả cho bà được 35.000.000đ, còn nợ lại 122.500.000đ. Nay bà yêu cầu vợ chồng ông K’H, bà Ka M phải trả số tiền còn nợ là 122.500.000đ, không yêu cầu tính lãi.

2. Bản án 95/2018/DS-ST ngày 26/10/2018 về tranh chấp về hợp đồng tín dụng

+ Cấp xét xử: Sơ thẩm.

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Huyện Tân Châu - Tây Ninh

+ Tóm tắt nội dung: Ngày 21-3- 2007, ông Khum D ký Hợp đồng tín dụng với Quỹ tín dụng Nhân dân Công ty cao su Tân B để vay số tiền 25.000.000 đồng để mua xe gắn máy, lãi suất cho vay theo thỏa thuận 1,35%/ tháng, lãi suất nợ quá hạn 2,025%/ tháng, thời hạn cho vay 36 tháng. Khi vay tiền, ông Khum D và bà Huốt Sa M có thế chấp 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa số 20, tờ bản đồ số 15, diện tích 1.330 m2. Đất tọa lạc tại ấp Kà Ốt, xã Tân Đông, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh. Trong thời gian thực hiện hợp đồng, ông Khum D và bà Huốt Sa M đã trả tiền vay cho QTD được 7.500.000 đồng và tiền lãi trả đến ngày 15-01-2010 được 6.931.000 đồng thì ngưng cho đến nay.

3. Bản án 94/2017/DS-PT ngày 19/09/2017 về yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

+ Cấp xét xử: Phúc thẩm.

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Lâm Đồng

+ Tóm tắt nội dung:

Trước đây ông Nguyễn D1, Bà Trần Thị D có tạo lập được tài sản chung là một mảnh đất diện tích 300m2. Ngày 02/4/2010, ông D1 chết không để lại di chúc. Vì vậy, ngày 15/4/2011 các đồng thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông D1 đã lập văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế tại UBND thị trấn Dr, thống nhất nhường toàn bộ di sản thừa kế của ông D1 để lại cho một mình bà D. Bà D có con là chị C, bà D là người không biết chữ nhưng khi lăn tay vào hợp đồng tặng cho chị C thì không có người làm chứng; Hợp đồng tặng cho diện tích 185m2 đất nói trên không tự nguyện mà do chị C lừa dối và hợp đồng này có đến 02 trang không có dấu lăn tay của bà D nên không đúng quy định của pháp luật

4. Bản án 05/2017/DS-ST ngày 15/03/2017 về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

+ Cấp xét xử: Sơ thẩm.

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Huyện Tân Hưng - Long An

+ Tóm tắt nội dung: Vào ngày 08/5/2016 anh có hợp đồng bao tiêu nếp với anh Ngũ Văn Kha diện tích đất 10 hecta với số lượng nếp dự tính thu hoạch là 60 tấn, giá thu mua là 5.000 đồng/1kg, anh có đưa cho anh Lê Văn My là cò lúa đưa trước cho anh Kha 50.000.000 đồng và 800kg nếp giống; giá nếp giống là 11.000đồng/1kg thành tiền là 8.800.000 đồng. Tổng số tiền anh đã đưa trước cho anh Kha là 58.800.000 đồng, nhưng khi đến vụ thu hoạch anh Kha không giao nếp cho anh như thỏa thuận, anh Kha chỉ trả anh 50.000.000 đồng mà không bồi thường tiền phạt cọc cho anh như hợp đồng hai bên đã ký nên anh khởi kiện yêu cầu anh Kha phải bồi thường tiền phạt cọc nếp cho anh số tiền 50.000.000 đồng (50.000.000 đồng x 2 = 100.000.000 đồng – 50.000.000 đồng = 50.000.000 đồng) tiền phạt cọc nếp giống là 17.600.000 đồng (8.800.000đồng x 2) và chi phí đầu tư đóng ghe vận chuyển nếp, bao tiêu lò sấy nếp số tiền là 18.000.000 đồng.

5. Bản án 46/2019/DS-PT ngày 02/04/2019 về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

+ Cấp xét xử: Phúc thẩm.

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Bình Dương

+ Tóm tắt nội dung:

Ngày 21/4/2018, bà H1 và ông H2 ký hợp đồng đặt cọc về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nội dung như sau: Ông H2 chuyển nhượng cho bà H1 phần đất có diện tích 4.690m2; giá chuyển nhượng là: 2.250.000.000 đồng; bà H1 đã đặt cọc số tiền 200.000.000 đồng; trong hời hạn là 01 tháng kể từ ngày ký kết hợp đồng đặt cọc ông H2 phải thực hiện các thủ tục pháp lý cần thiết để ký hợp đồng chuyển nhượng chính thức cho bà H1. Sau đó, hai bên có thương lượng lại nhưng không thống nhất được việc tiếp tục thực hiện hợp đồng, ông H2 đồng ý và ký “bản cam kết” có nội dung là sẽ trả lại cho bà H1 số tiền cọc 200.000.000 đồng theo hợp đồng ngày 21/4/2018 nhưng đến nay không thực hiện.

6. Bản án 188/2018/DS-PT ngày 10/10/2018 về tranh chấp hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất

+ Cấp xét xử: Phúc thẩm.

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Cà Mau

+ Tóm tắt nội dung:

Vào năm 1993 bà Phạm Thị Đ1 có vay của bà Nguyễn Thị Đ2 30 giạ lúa. Đến năm 1995 do lãi quá cao bà Đ1 không có khả năng trả. Đến năm 1996 bà Đ1 thỏa thuận cầm cố cho bà Đ2 diện tích đất 7.776m2 tọa lạc tại ấp LM, xã PM, huyện PT, tỉnh Cà Mau với giá bằng 18 chỉ vàng 24K. Các bên đã giao nhận đất, giao nhận vàng xong. Việc cầm cố giữa hai bên chỉ thỏa thuận bằng lời nói, không có đo đạc cụ thể diện tích đất. Đến ngày 22/02/1996 bà Đ2 tự ý giả mạo chữ ký của bà Đ1 để lập văn bản về việc chuyển nhượng diện tích đất nêu trên.

7. Bản án 433/2019/DS-PT ngày 23/10/2019 về tranh chấp đòi quyền sử dụng đất cho thuê và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

+ Cấp xét xử: Phúc thẩm.

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao

+ Tóm tắt nội dung:

Vào năm 1984 Hợp tác xã giao khoán thửa đất diện tích 1.360m2 đất 2L giao khoán hộ gia đình chị có 03 nhân khẩu gồm: mẹ chị Võ Thị Đ tên gọi khác Dứt, chị Nguyễn Thị Ngọc N và chị Nguyễn Thị Mỹ L. Ngày 05/12/1994 ủy ban nhân dân (UBND) huyện N cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số D 0774350 tên mẹ chị Võ Thị Đứt phần ghi thêm đất nhận khoán. Mẹ chị chết ngày 10/7/2015 không để lại di chúc. Năm 2016 hết hạn mẹ chị cho thuê ruộng, chị Ninh làm đơn khiếu nại gửi đến UBND xã A yêu cầu giải quyết buộc vợ chồng bà L, ông P trả lại diện tích ruộng cho chị em chị nhưng vợ chồng ông P không trả, ông P cho rằng mẹ chị ký tên trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (viết tắt HĐCNQSDĐ) được UBND xã A xác nhận ngày 24/10/2005.

Quang Chính
1632

Đây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email: info@thuvienphapluat.vn