TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN XX/2021/HNGĐ-ST NGÀY 31/05/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 31tháng 5 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 100/2021/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 3 năm 2021, về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 4 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số: 39/2021/QĐST- DS ngày 14 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Thu L, sinh năm 1994.
Địa chỉ: Thôn T2, xã TS, TP. P, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
2. Bị đơn: Anh Bùi Quang Th, sinh năm 1987.
Địa chỉ: Thôn T2, xã TS, TP. P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện đề ngày 04/3/2021, tại bản khai và tại phiên tòa nguyên đơn là chị Trần Thị Thu L bày:
Về hôn nhân: Chị L với anh Th sau thời gian tìm hiểu và đi đến kết hôn trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã TS, TP. P, tỉnh Gia Lai, Giấy chứng nhận kết hôn số: 66, ngày 26/12/2016. Sau khi kết hôn cuộc sống của vợ chồng thời gian đầu hạnh phúc nhưng sau đó vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân chính là do bất đồng quan điểm, không tìm được tiếng nói chung, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2019 đến nay, chị L thấy tình cảm không còn nên yêu cầu được ly hôn vơi anh Th.
Về con chung: Có 01 con chung là cháu Bùi Quang Thuận, sinh ngày 18/01/2018 hiện nay con chung đang sống cùng chị L. Chị L yêu cầu được nuôi con.
Về cấp dưỡng: Không yêu cầu.
Về tài sản chung, nợ chung: Không có.
Bị đơn anh Bùi Quang Th: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn là anh Bùi Quang Th mặc dù Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh Th vắng mặt nên không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai tham gia phiên tòa:
Về tố tụng: Thực hiện đầy đủ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Chị L và anh Th mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L. Giao cho chị L nuôi cháu Bùi Quang Thuận, sinh ngày 18/01/2018 là phù hợp và có căn cứ. Việc cấp dưỡng không yêu cầu và tài sản chung, nợ chung không có nên không xem xét. Về án phí nguyên đơn phải chịu theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng. Tòa án nhân dân thành phố P nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Chị Trần Thị Thu L có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho được ly hôn với anh Bùi Quang Th có địa chỉ: Thôn T2, xã TS, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai.
Bị đơn là anh Bùi Quang Th đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[2] Về hôn nhân: Chị Trần Thị Thu L và anh Bùi Quang Th kết hôn trên cơ sở tự nguyện và được Ủy ban nhân dân xã TS, TP. P, tỉnh Gia Lai cấp Giấy chứng nhận kết hôn số: 66, ngày 26/12/2016. Vì vậy, quan hệ hôn nhân của chị L và anh Th là hôn nhân hợp pháp.
[3] Chị L cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do bất đồng quan điểm, không tìm được tiếng nói chung, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2019 đến nay, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng không thể hàn gắn được nên chị L yêu cầu được ly hôn với anh Th. Mặt khác trong quá trình giải quyết vụ án anh Th cũng không có ý kiến thể hiện mong muốn đoàn tụ vợ chồng, từ đó cho thấy anh Th không có thiện chí để Tòa án hòa giải đoàn tụ mà để mặc. Từ căn cứ trên thấy rằng mâu thuẫn vợ chồng chị L và anh Th là có thật, mâu thuẫn đã kéo dài và đã đến mức sâu sắc, vợ chồng không còn tôn trọng, chăm sóc nhau trong khoảng thời gian dài, họ không còn tình thương và niềm tin đối với nhau.
Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị L và anh Th đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L.
[4] Về con chung: Có 01 con chung là cháu Bùi Quang Thuận, sinh ngày 18/01/2018 hiện nay con chung đang sống cùng chị L. Chị L yêu cầu được nuôi con vì con đang còn nhỏ cần được sự chăm sóc của mẹ. Yêu cầu của chị L có cơ sở nên được chấp nhận.
[5] Về việc cấp dưỡng nuôi con: Không yêu cầu, nên không xem xét. [6] Về tài sản chung và nợ chung: Không có, nên không xem xét.
[7] Về án phí: Chị L là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm. Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng: Điều 51, Điều 54, Điều 56, Điều 58, Điều 71, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Căn cứ: khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Thu L.
- Về hôn nhân: Chị Trần Thị Thu L được ly hôn với anh Bùi Quang Th.
- Về con chung: Có 01 con chung là cháu Bùi Quang Thuận, sinh ngày 18/01/2018 hiện nay con chung đang sống cùng chị L.
Giao con chung là cháu Bùi Quang Thuận, sinh ngày 18/01/2018 cho chị Trần Thị Thu L trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi cháu Thuận đã thành niên và có khả năng lao động hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
- Về cấp dưỡng: Không yêu cầu.
- Về tài sản chung, nợ chung: Không có.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên đương sự. Toà án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con. Không bên nào được cản trở quyền gặp gỡ và chăm sóc con chung.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Trong trường hợp có yêu cầu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc quyết định việc thay đổi mức cấp dưỡng.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 7, Điều 7a và Điều 7b Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
- Về án phí: Chị Trần Thị Thu L phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai số 0012218, ngày 04 tháng 3 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P, tỉnh Gia Lai. Chị Trần Thị Thu L đã nộp đủ tiền án phí.
Nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại Uỷ ban nhân dân nơi cư trú.
Bản án XX/2021/HNGĐ-ST ngày 31/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | XX/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 31/05/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về