Bản án về xin ly hôn và nuôi con số 48/2021/HNGĐ-ST

TA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒN ĐẤT - TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 48/2021/HNGĐ-ST NGÀY 31/05/2021 VỀ XIN LY HÔN VÀ NUÔI CON 

Trong ngày 31 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 120/2021/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 03 năm 2021 về việc “Tranh chấp xin ly hôn, nuôi con,”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2021/QĐXXST - HNGĐ, ngày 04 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1991.

Đa chỉ: thị trấn Hn Đất, huyện Hn Đất, Kiên Giang.

2. Bị đơn: Anh Phạm Văn C, sinh năm 1982.

Đa chỉ:  thị trấn Hn Đất, huyện Hn Đất, Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 03/03/2021 và tại phiên Ta chị Nguyễn Thị H trình bày: Chị Nguyễn Thị H và anh Phạm Văn C tự tìm hiểu yêu thương nhau và được gia đình hai bên thống nhất nên chị H, anh C tiến đến hôn nhân và có tổ chức đám cưới vào năm 2007, chị H, anh C có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Lình Huỳnh huyện Hn Đất ngày 16/4/2015. Thời gian đầu vợ chồng chung sống với nhau rất hạnh phúc nên giữa chị H và anh C đã có 02 con chung tên Phạm Thành Nhân, sinh ngày 21/6/2008 và Phạm Thị Ngọc Mai, sinh ngày 25/8/2015. Tuy nhiên, thời gian sau này vợ chồng thường hay cự cãi, không có tiếng nói chung, bất đồng quan điểm sống nên chị H với anh C đã ly thân từ tháng 02/2021 đến nay. Xét thấy, mục đích hôn nhân của vợ chồng không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài nên chị H yêu cầu được ly hôn với anh C.

Về con chung: Có 02 con chung tên Phạm Thành Nhân, sinh ngày 21/6/2008 và cháu Phạm Thị Ngọc Mai, sinh ngày 25/8/2015, chị H đồng ý giao 02 con chung cho anh C tiếp tục nuôi dưỡng 02 cháu, chị không đồng ý cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị H cho rằng vợ chồng đã tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ và cho vay nợ: Chị H trình bày vợ chồng không nợ ai và cũng không cho ai vay nợ. Nên không yêu cầu Ta án giải quyết Bị đơn anh Phạm Văn C: Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo phiên họp kiểm tra việc giap nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhiều lần, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên ta của Tòa án nhưng anh Phạm Văn C đều cố tình vắng mặt nên không có lời khai.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên ta, Ta án nhận định:

[1] Về tố tụng : Nguyên đơn chị Nguyễn Thị H khởi kiện yêu cầu xin ly hôn với anh Phạm Văn C, giải quyết việc nuôi con chung đây là tranh chấp “Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” được quy định tại khoản 1 điều 28 Bộ luật tố tụng dân.

Anh Phạm Văn C với tư cách là bị đơn trong vụ án có nơi cư trú tại khu phố Sư Nam, thị trấn Hòn Đất, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang nên căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang.

Tại phiên ta, bị đơn anh Phạm Văn C đã được Tòa án tống đạt hợp lệ lần thứ hai nhưng không có mặt. Do đó Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông Phạm Văn C theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung: Chị Nguyễn Thị H và anh Phạm Văn C tự tìm hiểu yêu thương nhau và được gia đình hai bên thống nhất nên chị H và anh C tiến đến hôn nhân và có tổ chức đám cưới vào năm 2007 có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Lình Huỳnh ngày 16/4/2015. Thời gian đầu vợ chồng chung sống với nhau rất hạnh phúc nên giữa chị H, anh C đã có 02 con chung tên Phạm Thành Nhân, sinh ngày 21/6/2008 và cháu Phạm Thị Ngọc Mai, sinh ngày 25/8/2015. Tuy nhiên, thời gian sau này vợ chồng thường hay hay cự cãi, không có tiếng nói chung, bất đồng quan điểm sống nên chị H và anh C đã ly thân từ tháng 02/2021 đến nay. Xét thấy, mục đích hôn nhân của vợ chồng không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài nên chị H yêu cầu được ly hôn với anh C.

Xét thấy mâu thuẫn trong cuộc sống vợ chồng giữa chị H và anh C là mâu thuẫn thường xảy ra trong cuộc sống trong gia đình, đáng lẽ ra các bên phải biết tìm hiểu rõ sự thật của vụ việc, để thông cảm, tha thứ cũng như chia sẽ khó khăn cho nhau, tạo điều kiện cho anh, chị hàn gắn mâu thuẫn, xây dựng hạnh phúc gia đình nuôi dạy con cái. Nhưng ở đây chị H, anh C không làm được điều đó mà lại quyết định sống ly thân nhau, làm cho mâu thuẫn trở nên trầm trọng thêm, làm cho đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nghĩ nên cho chị H được ly hôn với anh C là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Về con chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Phạm Văn C có 02 con chung tên Phạm Thành Nhân, sinh ngày 21/6/2008 và Phạm Thị Ngọc Mai, sinh ngày 25/8/2015. Hiện nay cháu Nhân và cháu Mai đang sống với anh H, đồng thời chị H cũng đồng ý giao cháu Nhân và cháu Mai cho anh H tiếp tục nuôi dưỡng , đây cũng là nguyên vọng của cháu Nhân, nghĩ nên tiếp tục giao cháu Phạm Thành Nhân và cháu Phạm Thị Ngọc Mai cho anh H tiếp tục nuôi dưỡng, đối với việc cấp dưỡng nuôi con do phía anh C không có yêu cầu gì nếu sau này có yêu cầu thì khởi kiện ở vụ kiện khác, những yêu cầu của chị H phù hợp với Điều 81, Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4]. Về tài sản chung: Chị H cho rằng vợ chồng đã tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về nợ và cho vay nợ: Chị H cho rằng vợ chồng không nợ ai và cũng không cho ai vay nợ. Nếu sau này có tranh chấp thì khởi kiện ở vụ kiện khác.

[5]. Về án phí dân sự sơ thẩm xin ly hôn: Căn cứ vào Nghị Quyết 326 ngày 31/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí xin ly hôn.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, Điều 271, Điều 273, Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự. Các Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình. Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Ta án.

Xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị H.

- Chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Phạm Văn C.

2. Về con chung: Giao cháu Phạm Thành Nhân và cháu Phạm Thị Ngọc Mai cho anh Phạm Văn C tiếp tục nuôi dưỡng.

Chị Nguyễn Thị H có quyền thăm nom chăm sóc con chung, anh Phạm Văn C cũng như những người khác không ai được quyền cấm cản.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nguyễn Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Buộc chị Nguyễn Thị H phải nộp 300.000 đồng nhưng được đối trừ vào tiền tạm ứng án phí mà chị H đã tạm nộp theo biên lai thu số 0002650 ngày 29/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang. Như vậy chị Nguyễn Thị H đã nộp xong phần án phí.

Án xử công khai có mặt nguyên đơn, báo cho nguyên đơn biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Riêng anh Phạm Văn C vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về xin ly hôn và nuôi con số 48/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:48/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hòn Đất - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về