Bản án về xin ly hôn, tranh chấp nuôi con chung T– B số 15/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 15/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/04/2022 VỀ XIN LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG T– B

Trong ngày 14 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 20/2022/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 01 năm 2022 về việc xin ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 3 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 06A/2022/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị T, sinh năm 1983

- Bị đơn: Anh Hà Đăng B, sinh năm 1976;

Đều có địa chỉ: Thôn L, xã D, huyện T1, tỉnh Thái Bình.

(Chị T đơn xin xét xử vắng mặt, anh B vắng mặt lần 2 không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 04/01/2022, bản tự khai, các đơn đề nghị và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Trần Thị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Hà Đăng B kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã D, huyện T, tỉnh Thái Bình và được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 30/11/2001. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được 05 năm đầu thì phát sinh mâu thuẫn. Những năm sau trong quá trình chung sống do nhiều nguyên nhân nên tình cảm vợ chồng không còn như trước, bất đồng ý kiến về mọi mặt và mâu thuẫn ngày càng quyết liệt. Từ tháng 8 năm 2015 thì mâu thuẫn trở nên trầm trọng, thường xuyên cãi vã, không thể cùng chung sống trong một mái nhà nên anh chị đã ly thân với nhau, chị cùng các con chung về nhà mẹ đẻ chị tại thôn L, xã D sinh sống từ đó đến nay. Từ lúc ly thân, vợ chồng không quan tâm, hỏi han đến nhau. Đến nay, chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc, chị T làm đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện T1 giải quyết cho chị được ly hôn anh B.

Về con chung: Chị và anh B có hai con chung là cháu Hà Mạnh D1, sinh ngày 16/5/2003 và cháu Hà Hải Đ, sinh ngày 05/11/2010. Cháu D1 đã trưởng thành và khỏe mạnh nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết, cháu Đ hiện nay đang ở cùng với chị, ly hôn chị có nguyện vọng được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đ và không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con chung.

Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Anh chị không có nợ chung và chị không yêu cầu Tòa án giải quyết về quan hệ tài sản. Vì lý do công việc và dịch bệnh Covid diễn ra phức tạp nên chị xin được vắng mặt tại phiên tòa.

Trong quá trình giải quyết vụ án, ngày 04/3/2022 trong buổi làm việc với anh Hà Đăng B, anh B đã được giải thích các quy định của pháp luật để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình, anh B có trình bày anh không có ý kiến gì về việc chị T yêu cầu ly hôn. Tuy nhiên, anh từ chối viết bản tự khai, từ chối việc Tòa án lấy lời khai của anh, không đưa ra quan điểm để hàn hắn hòa giải hay về việc giải quyết vụ án. Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh Hà Đăng B nhiều lần, tuy nhiên anh Biền không đến Tòa án làm việc. Tòa án nhân dân huyện T1 đã tiến hành tống đạt trực tiếp và hợp lệ theo quy định của pháp luật các văn bản tố tụng cho anh B theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Tại biên bản xác minh ngày 04/3/2022, Ủy ban nhân dân xã và Công an xã D, huyện T1 cùng đại diện cơ sở thôn cung cấp thông tin như sau:

Anh Hà Đăng B, sinh ngày 19/5/1976 có hộ khẩu thường trú tại thôn L, xã D, huyện T1, tỉnh Thái Bình, có số căn cước công dân là 034076013530 do Cục cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội cấp, là công dân có hộ khẩu thường trú và hiện vẫn đang sinh sống và lao động tại địa phương. Chị T và anh B có tự nguyện tìm hiểu, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã D, huyện T1, tỉnh Thái Bình và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 39 ngày 30/11/2001. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung nên dẫn đến tình trạng cãi chửi nhau. Mâu thuẫn căng thẳng nên chị T đã cùng các con chung chuyển về nhà mẹ đẻ sinh sống. Cơ sở thôn đã hòa giải để hàn gắn hôn nhân nhiều lần nhưng hai anh chị không tìm được tiếng nói chung và đã sống ly thân đến nay. Quan điểm của Ủy ban nhân dân xã D về việc chị T xin ly hôn anh B là đề nghị Tòa án hòa giải để hai vợ chồng đoàn tụ, còn trong trường hợp mâu thuẫn đã quá trầm trọng vì các bên đương sự đã sống ly thân quá lâu, không có khả năng hàn gắn thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Về con chung: Vợ chồng chị T và anh B có hai con chung là các cháu Hà Mạnh D1, sinh ngày 16/5/2003 và cháu Hà Hải Đ, sinh ngày 05/11/2010. Cháu D1 đã trưởng thành và khỏe mạnh, còn cháu Đ đang sinh sống cùng với chị T từ năm 2015. Địa phương đề nghị Tòa án căn cứ vào các quy định của pháp luật và nguyện vọng của các con để giải quyết. Về tài sản chung, nợ chung: Hiện nay không có thông tin phản ánh tại địa phương về việc chị T và anh B không có vay nợ tổ chức, cá nhân nào.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T1 phát biểu quan điểm tại phiên tòa: Quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đều tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn anh B mặc dù đã được tòa án triệu tập hợp lệ, biết việc chị T xin ly hôn anh;

được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản của Tòa án nhưng anh không trình bày ý kiến, không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án là chưa thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của bị đơn theo quy định tại các Điều 70, 72 Bộ luật tố dụng dân sự.Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51, Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân gia đình xử cho chị Trần Thị T được ly hôn anh Hà Đăng B; Về quan hệ con chung: Cháu Hà Mạnh D1, sinh ngày 16/5/2003 đã trưởng thành và khỏe mạnh, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra giải quyết; Giao con chung Hà Hải Đ, sinh ngày 05/11/2010 cho chị T trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng, chấp nhận việc chị T không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con. Anh B có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con được đặt ra khi các đương sự có yêu cầu theo quy định của pháp luật; Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Chị T không yêu cầu nên Tòa án không đặt ra giải quyết. Chị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa cà căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thẩm quyền: Bị đơn đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã D, huyện T1 tỉnh Thái Bình, hiện nay anh B đang sinh sống và lao động tại địa phương, trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn không thay đổi nơi cư trú vì vậy đây là vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T1 theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, chị Trần Thị T có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Hà Đăng B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các bên đương sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh B kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã S, huyện T1, tỉnh Thái Bình và được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 39 ngày 30/11/2001. Tại thời điểm kết hôn, anh chị đủ điều kiện kết hôn, là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, theo chị T trình bày là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống do nhiều nguyên nhân nên tình cảm vợ chồng không còn như trước. Mâu thuẫn ngày càng quyết liệt, không thể cùng chung sống trong một mái nhà nên tháng 8 năm 2015 anh chị đã ly thân với nhau, chị cùng các con chung về nhà mẹ đẻ chị sinh sống. Từ đó đến nay anh chị sống ly thân và không hỏi han nhau cũng không có biện pháp gì để hàn gắn quan hệ hôn nhân. Tại các văn bản gửi đến Tòa án và trong quá trình làm việc tại Tòa án, chị T trình bày anh B không có ý kiến về việc chị ly hôn cũng không đưa ra được biện pháp để hàn gắn hôn nhân, trốn tránh không đến Tòa án làm việc để gây khó khăn cho chị và chị cho rằng mâu thuẫn vợ chồng anh chị đã trầm trọng, chị kiên quyết xin được ly hôn anh B. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành gửi các văn bản tố tụng theo đúng quy định pháp luật cho anh B, anh B đã biết được việc chị T xin ly hôn anh nhưng anh không đưa ra quan điểm, nguyện vọng giải quyết hàn gắn quan hệ hôn nhân với chị T, không trình bày quan điểm cũng như tìm các biện pháp để hòa giải vợ chồng thể hiện việc anh B không tha thiết với việc hàn gắn tình cảm gia đình. Qua xác minh tại địa phương nơi chị T và anh B cùng sinh sống trước và sau khi ly thân xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa hai bên là có thật, có tình trạng vợ chồng đánh cãi nhau và ly thân từ khoảng năm 2015. Như vậy, Hội đồng xét xử xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T và anh B đã ở mức trầm trọng, đời sống hôn nhân không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T để vợ chồng đoàn tụ cũng không thành và sẽ làm cho mâu thuẫn thêm trầm trọng, chị T cương quyết xin ly hôn, cần xử cho chị T được ly hôn anh B là phù hợp với thực tế và quy định tại khoản 1 điều 51 và Điều 56 Luật hôn nhân gia đình.

[4] Về quan hệ con chung: Chị T và anh B có hai con chung là cháu Hà Mạnh D1, sinh ngày 16/5/2003 và cháu Hà Hải Đ, sinh ngày 05/11/2010. Cháu D1 hiện nay khỏe mạnh và đã trưởng thành nên chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết. Cháu Hà Hải Đ hiện đang ở cùng với chị T. Ly hôn chị T có nguyện vọng được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đ và không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con. Xét nguyện vọng của cháu Đ muốn được ở với mẹ, cũng như để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển mọi mặt của cháu Đ do từ trước đến nay cháu vẫn được chị T chăm sóc, nuôi dưỡng và đang phát triển bình thường, khỏe mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần, căn cứ vào các Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử cần xử giao con chung Hà Hải Đ cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng và chấp nhận việc chị T không yêu cầu anh B phải cấp dưỡng nuôi con chung. Anh B có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con được đặt ra khi các đương sự có yêu cầu theo quy định của pháp luật.

[5] Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Chị T và anh B không có nợ chung, chị T không yêu cầu giải quyết về tài sản, do đó Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết về quan hệ tài sản.

[6] Về án phí: Chị T phải chịu toàn bộ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự.

[7] Về quyền kháng cáo: Chị T và anh B có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật tại điều 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, Điều 56, các Điều 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Trần Thị T được ly hôn anh Hà Đăng B.

2. Về con chung: Con chung Hà Mạnh D1 đã trưởng thành và khỏe mạnh, chị T không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết. Giao cho Trần Thị T trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Hà Hải Đ, sinh ngày 05/11/2010. Chị T không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con chung. Các đương sự có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở, có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung, yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng cho con chung theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Chị Trần Thị T phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, chuyển số tiền 300.000đ chị T đã nộp tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0004065 ngày 19/01/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện T1 sang thi hành án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về xin ly hôn, tranh chấp nuôi con chung T– B số 15/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:15/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 14/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về