Bản án về xin ly hôn số 54/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ G, TỈNH B

BẢN ÁN 54/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/09/2021 VỀ XIN LY HÔN

Vào ngày 22 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã G, tỉnh B tiến hành phiên tòa xét xử sơ thẩm công vụ án thụ lý số: 176/2021/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 7 năm 2021 về tranh chấp “Xin ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2021/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 9 năm 2021, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn M – sinh năm 1971.

Địa chỉ: Ấp 5, xã Ph, thị xã G, tỉnh B. (vắng mặt)

* Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Ng – sinh năm 1971.

Trú tại: Ấp 5, xã Ph, thị xã G, tỉnh B. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, biên bản lấy lời khai và biên bản hòa giải, ông Nguyễn Văn M, là nguyên đơn trình bày: Ông M và bà Nguyễn Thị Ng tự nguyện chung sống như vợ chồng vào năm 1993, có tổ chức lễ cưới hỏi theo phong tục nhưng cho đến nay vẫn không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Quá trình chung sống xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm dẫn đến thường xuyên cãi vã, làm cho cuộc sống chung không hạnh phúc, vợ chồng đã không còn chung sống một thời gian dài từ năm 2015 đến nay. Do mâu thuẫn kéo dài ngày càng trầm trọng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm vợ chồng không còn nên ông M xin ly hôn với bà Nguyễn Thị Ng. Về con chung ông M xác định chung sống với bà Ng có 03 người con là chị Nguyễn Thị Chúc Đ, sinh năm 1993, chị Nguyễn Thị Trúc Gi, sinh năm 1995 và anh Nguyễn Trường Gi, sinh năm 2000, hiện nay cả ba con đã trưởng thành, có thể tự lao động nuôi sống bản thân nên không yêu cầu giải quyết; về tài sản chung tự thỏa thuận, nợ chung không có nên ông M không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, ông M không yêu cầu gì thêm.

* Tại biên bản lấy lời khai và biên bản hòa giải, bà Nguyễn Thị Ng, là bị đơn trình bày: Năm 1993, bà Ng và ông M có tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn. Trong thời gian chung sống bà Ng và ông M có xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm. Nay ông M xin ly hôn thì bà Ng cũng đồng ý ly hôn. Bà Ng cũng đồng ý với ý kiến và yêu cầu của ông M về vấn đề con chung, tài sản chung và nợ chung.

* Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã G, tỉnh B phát biểu quan điểm:

- Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện đầy đủ theo thủ tục tố tụng và các văn bản có liên quan nên về hình thức tố tụng Viện kiểm sát xét thấy bảo đảm đủ điều kiện và hợp pháp. Nguyên đơn là ông M và bị đơn là bà Ng đều có đơn xin xử vắng mặt nên đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông M và bà Ng.

- Về nội dung vụ án:

+ Về hôn nhân: Ông M và bà Ng chung sống như vợ chồng từ năm 1993 nhưng đến nay vẫn không đăng ký kết hôn nên đề nghị không công nhận ông M và bà Ng là vợ chồng.

+ Về con chung đã trưởng thành, tài sản chung tự thỏa thuận và nợ chung không có nên không đặt ra xem xét.

+ Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn M là nguyên đơn xin ly hôn nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định nội dung vụ kiện như sau:

* Về thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn ông Nguyễn Văn M khởi kiện yêu cầu ly hôn với bà Nguyễn Thị Ng nên đây là tranh chấp về ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bị đơn bà Nguyễn Thị Ng có địa chỉ cư trú tại Ấp 15, xã Phong Thạnh Tây, thị xã G, tỉnh B nên vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã G theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

* Về thủ tục tố tụng: Xét thấy, nguyên đơn là ông Nguyễn Văn M và bị đơn là bà Nguyễn Thị Ng đều có đơn xin xử vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông M và bà Ng theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

* Về mặt nội dung:

[1] Xét quan hệ hôn nhân giữa ông Nguyễn Văn M và bà Nguyễn Thị Ng: ông M và bà Ng tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1993 là có xảy ra trên thực tế, được hai bên thừa nhận. Tuy nhiên, ông bà đã không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Quá trình chung sống có phát sinh mâu thuẫn nên ông M xin ly hôn thì bà Ng cũng đồng ý ly hôn. Hội đồng xét xử thấy rằng việc không đăng ký kết hôn giữa ông M và bà Ng là không tuân thủ quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình. Tại khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng…” và tại khoản 2 Điều 53 quy định: “Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của luật này…”. Vì vậy, Hội đồng xét xử không công nhận ông Nguyễn Văn M và bà Nguyễn Thị Ng là vợ chồng.

[2] Về con chung: Căn cứ vào lời trình bày của ông M, bà Ng và tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì có căn cứ xác định chị Nguyễn Thị Chúc Đ, sinh năm 1993, chị Nguyễn Thị Trúc Gi, sinh năm 1995 và anh Nguyễn Trường Gi, sinh năm 2000 là con chung của ông M và bà Ng. Thấy rằng hiện nay cả ba con đã trưởng thành, có thể tự lao động nuôi sống bản thân, ông M và bà Ng đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[3] Về tài sản chung: Ông M và bà Ng thống nhất xác định tự thỏa thuận về tài sản chung, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[4] Về nợ chung: Ông M và bà Ng thống nhất xác định không có nợ chung, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn M là nguyên đơn xin ly hôn nên phải nộp 300.000 đồng.

Như đã phân tích ở trên, có căn cứ chấp nhận toàn bộ đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Khoản 1 Điều 14; khoản 1 Điều 16, khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/. Không công nhận ông Nguyễn Văn M và bà Nguyễn Thị Ng là vợ chồng.

2/. Về con chung: Chị Nguyễn Thị Chúc Đ, sinh năm 1993, chị Nguyễn Thị Trúc Gi, sinh năm 1995 và anh Nguyễn Trường Gi, sinh năm 2000 đều đã trưởng thành, có thể tự lao động nuôi sống bản thân, ông M và bà Ng đều không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

3/. Về tài sản chung: Ông M và bà Ng thống nhất xác định tự thỏa thuận tài sản chung, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

4/. Về nợ chung: Ông M và bà Ng thống nhất xác định không có nợ chung, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

5/. Về án phí: Ông Nguyễn Văn M phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Ông M đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0003676 ngày 12/7/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã G được chuyển thu án phí.

Án xử công khai, ông M và bà Ng vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về xin ly hôn số 54/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:54/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Giá Rai - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về