TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NGÃ BẢY, TỈNH HẬU GIANG
BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 01/02/2021 VỀ XIN LY HÔN
Ngày 01 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Ngã Bảy mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 184/2020/HNGĐ-ST, ngày 04/11/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2021/QĐST-HNGĐ, ngày 15/01/2021, về việc "Xin ly hôn", giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Phạm Thị Mộng T, sinh năm: 1984. (Có mặt) Trú tại: Ấp ĐAA, xã ĐT, thành phố NB, tỉnh Hậu Giang.
2. Bị đơn: Huỳnh Văn T1, sinh năm: 1982. (Vắng mặt) Trú tại: Ấp ĐAA, xã ĐT, thành phố NB, tỉnh Hậu Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 22/4/2020 và tại phiên tòa nguyên đơn Phạm Thị Mộng T trình bày:
Chị T và anh T1 do mai mối nên quen biết, tìm hiểu nhau một thời gian và đi đến hôn nhân, được hai bên gia đình tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn năm 2009 tại Ủy ban nhân dân xã PH, huyện CT, tỉnh Hậu Giang, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện. Thời gian đầu cuộc sống gia đình hạnh phúc; sau đó xảy ra nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, hay cãi nhau, không tôn trọng lẫn nhau, giữa hai vợ chồng không có tiếng nói chung, anh T1 thường xuyên uống rượu và đánh đập vợ con, không lo lắng cho gia đình dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Chị T không chấp nhận được nên đã bỏ nhà đi và sống ly thân với anh T1 từ năm 2016 cho đến nay. Hiện tại mỗi người có một cuộc sống riêng, không quan tâm chăm sóc lẫn nhau và không còn tình cảm vợ chồng nên chị T yêu cầu được ly hôn với anh Huỳnh Văn T1.
Về con chung: Có 01 con chung tên Huỳnh Văn M (giới tính: Nam), sinh ngày 22/4/2011. Hiện nay con chung đang sống với chị T. Sau khi ly hôn chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh T1 cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung: Không có.
Về nợ chung: Không có.
Tại biên bản ghi lời khai của bị đơn trình bày: Bị đơn thừa nhận lời trình bày của nguyên đơn về năm đăng ký kết hôn, nguyên nhân mâu thuẫn không lớn nhưng vợ chồng đã ly thân hơn 03 năm nay, con chung, tài sản chung, nợ chung là đúng. Bị đơn không đồng ý ly hôn do còn thương vợ con.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ngã Bảy tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa hôm nay, Thẩm phán và Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Đối với các đương sự: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 71 và của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nên không thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 72 và của Bộ luật tố tụng dân sự Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Phạm Thị Mộng T được ly hôn anh Huỳnh Văn T1; con chung giao cho chị T được tiếp tục nuôi dưỡng cháu M, anh T1 chưa phải cấp dưỡng nuôi con chung; tài sản chung, nợ chung không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật: Chị Phạm Thị Mộng T khởi kiện xin ly hôn với anh Huỳnh Văn T1, đây là vụ kiện tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo quy định tại Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự và anh Huỳnh Văn T1 có nơi cư trú tại thành phố Ngã Bảy nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Ngã Bảy theo quy định tại Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về thủ tục tố tụng: Bị đơn Huỳnh Văn T1 đã được tống đạt hợp lệ nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 xét xử vắng mặt bị đơn.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh T1 do mai mối nên quen biết, tìm hiểu nhau một thời gian, sau đó anh chị được hai bên gia đình làm đám cưới và có đăng ký kết hôn năm 2009 tại Ủy ban nhân dân xã , huyện CT, tỉnh Hậu Giang, do đó hôn nhân của anh chị là hợp pháp.
Thời gian đầu cuộc sống gia đình hạnh phúc; sau đó xảy ra nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hợp nhau, giữa hai vợ chồng không có tiếng nói chung, anh T1 thường xuyên uống rượu và đánh đập vợ con, không lo cho cuộc sống gia đình. Mâu thuẫn kéo dài không hàn gắn lại được nên chị T đã bỏ nhà đi và sống ly thân với anh T1 từ năm 2016 cho đến nay. Nhận thấy chị T và anh T1 đã không sống chung trong một thời gian dài, anh chị không còn chăm sóc lẫn nhau, tình cảm vợ chồng của chị T dành cho anh T1 không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị T được ly hôn anh T1 theo quy định của Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
[3] Về con chung: Có 01 con chung tên Huỳnh Văn M (giới tính: Nam), sinh ngày 22/4/2011. Từ trước đến nay cháu M sống chung với mẹ và có nguyện vọng được sống chung với mẹ; nhằm tránh gây xáo trộn cuộc sống của cháu M nên Hội đồng xét xử thống nhất giao cháu M cho chị T được tiếp tục chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng.
Chị T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên anh T1 chưa phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho anh Huỳnh Văn T1 không ai được quyền cản trở.
[4] Về tài sản chung: Không có.
[5] Nợ chung: Không có.
[6] Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn phải nộp theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28; Điều 35; khoản 4 Điều 147; Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Điều 51; Điều 56; Điều 81 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Phạm Thị Mộng T được ly hôn với anh Huỳnh Văn T1.
Về con chung: Có 01 con chung tên Huỳnh Văn M (giới tính: Nam), sinh ngày 22/4/2011. Giao cháu M cho chị T được quyền tiếp tục chăm sóc, giáo dục nuôi dưỡng; anh T1 chưa phải cấp dưỡng nuôi con chung. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho anh Huỳnh Văn T1 không ai được quyền cản trở.
Về tài sản chung: Không có. Về nợ chung: Không có.
Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn Phạm Thị Mộng T phải nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Chuyển tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 0004637 ngày 04/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Ngã Bảy thành án phí, nguyên đơn không phải nộp thêm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2, Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự được quyền thỏa thuận thi hành án, được quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.
Nguyên đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (01/02/2021). Bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân nơi bị đơn cư trú
Bản án về xin ly hôn số 02/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 02/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Ngã Bảy - Hậu Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 01/02/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về