Bản án về xác nhận cha cho con số 40/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 40/2022/DS-ST NGÀY 12/08/2022 VỀ XÁC NHẬN CHA CHO CON

Ngày 12 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 74/2021/TLST- DS ngày 15 tháng 12 năm 2021 về việc “Xác nhận cha cho con” Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số1543/2022/QĐXXST-DS ngày 12 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Thanh S; sinh ngày 01/8/1996; Nơi ĐKHKTT: Thôn T, xã T, huyện B, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt và có yêu cầu xét xử vắng mặt.

Đại diện theo uỷ quyền tham gia tố tụng: Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1966, cư trú tại: Thôn T, xã T, huyện B, tỉnh Quảng Bình; (Theo giấy uỷ quyền lập ngày 30 tháng 11 năm 2021), có mặt.

2. Bị đơn:Chị Trần Thị U; sinh ngày 21/12/1999; Nơi ĐKHKTT trước khi xuất cảnh: Thôn 2, xã Đ, huyện B, tỉnh Quảng Bình, Hiện đang trú tại: #101, 24 S, 10-gil, D, D, Hàn Quốc, vắng mặt và có yêu cầu xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại các tài liệu trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn trình bày:

Anh S và chị Trần Thị U quen biết và yêu nhau tại Hàn Quốc, chưa đăng ký kết hôn, trong thời gian yêu nhau chị U mang thai và sinh bé Trần Bảo C vào ngày 21/02/2020. Vào ngày 29/3/2021 chị U đã uỷ quyền cho chị Hà Thị H (sinh ngày 02/4/1990 , số hộ chiếu N2003549, ngày cấp 03/12/2018 Nơi cấp : Seoul, Quốc tịch : Việt Nam) đưa cháu Bảo C về Việt Nam cho bố là Nguyễn Thanh S và ông nội tên là Nguyễn Văn C nuôi. Nay anh S đi giám định ADN huyết thống ngày 06/6/2021, kết luận người có mẫu ADN ký hiệu HID2106023-1 (anh Nguyễn Thanh S) và người có mẫu ADN HID2106023-2 (cháu Trần Bảo C) có quan hệ huyết thống cha con. Anh S yêu cầu Toà án xác nhận cha cho cháu Trần Bảo C là Nguyễn Thanh S Tại Bản tự khai và Đơn xin xét xử vắng mặt ngày 10 tháng 5 năm 2022, bị đơn chị Trần Thị U trình bày:

Chị và anh Nguyễn Thanh S quen biết và yêu nhau tại Hàn Quốc chưa đăng ký kết hôn, trong thời gian yêu nhau đã mang thai và sinh bé Trần Bảo C sinh ngày 21/02/2020. Vào ngày 29/3/2021 chị đã uỷ quyền cho chị Hà Thị H (sinh ngày 02/4/1990 , số hộ chiếu N2003549, ngày cấp 03/12/2018 Nơi cấp : Seoul, Quốc tịch : Việt Nam) đưa cháu Bảo C về Việt Nam cho bố cháu Nguyễn Thanh S và ông nội tên là Nguyễn Văn C nuôi. Nay chị xác nhận kết quả giám định ADN huyết thống ngày 06/6/2021 kết luận người có mẫu ADN ký hiệu HID2106023-1 (anh Nguyễn Thanh S) và người có mẫu ADN HID2106023-2 (cháu Trần Bảo C) có quan hệ huyết thống cha con.

Toà án đã tiến hành xác minh tại Phòng khám chuyên khoa MEDLATEC chi nhánh Quảng Bình ngày 24 tháng 5 năm 2022 nơi Giám định AND của anh S và cháu C, được xác nhận anh Nguyễn Thanh S và cháu Trần Bao C có đến phòng khám MEDLATEC lấy mẫu kết quả xét nghiệm huyết thống cha con. Kết quả phân tích có vào ngày 06 tháng 6 năm 2021. Thủ tục xét nghiệm và kết quả phân tích đảm bảo chính xác và đúng quy định pháp luật. Nếu mẹ cháu Trần Bảo C là chị Trần Thị U đề nghị công nhận kết quả xét nghiệm thì đề nghị Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình căn cứ vào quy định pháp luật để công nhận kết quả phân tích AND huyết thống số HID2106023 làm cơ sở để giải quyết vụ án. Đồng thời Phòng khám chuyên khoa MEDLATEC chi nhánh Quảng Bình cung cấp phiếu kết quả xét nghiệm phân tích AND huyết thống số HID2106023 duyệt ngày 08 tháng 6 năm 2022.

Tòa án cũng đã tiến hành xác minh đối với thân nhân gia đình bị đơn là ông Trần Xuân Cành, bố của chị Trần Thị U trú tại Thôn 2, xã Đồng Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Ngày 01 tháng 6 năm 2022 Tòa án đã lập biên bản xác minh có sự xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã Đồng Trạch nội dung như sau: Ông Trần Xuân Cành là bố đẻ của chị Trần Thị U. Anh S và chị U gặp và yêu nhau ở Hàn Quốc. Trong thời gian yêu nhau đã mang thai cháu Trần Bảo C, cháu C sinh ra ngày 21 tháng 2 năm 2020 tại Hàn Quốc. Anh S đã về nước sinh sống trước khi cháu C được sinh ra. Chị U tiếp tục ở lại Hàn Quốc làm việc. Ông Cành xác nhận chữ kí, chữ viết trong 02 Bản tự khai và Đơn xin xét xử vắng mặt ngày 10 tháng 5 năm 2022 đúng là của chị Trần Thị U, nội dung hoàn toàn đúng sự thật. Đề nghị Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình xác nhận cha cho cháu Trần Bảo C là anh Nguyễn Thanh S để cháu được đăng kí hộ tịch và đi học. Đồng thời ông Cành xác nhận địa chỉ chị U tại Hàn Quốc là Số #101, 24 Seowon-ro, 10-gil, Dalseo-gu, Daegu, Hàn Quốc. Ông Cành cung cấp một số tài liệu có chữ ký, chữ viết của chị U để Toà án trưng cầu giám định gồm: 02 Phiếu thu tiền hồ sơ đi xuất khẩu lao động ngày 03/01/2018 và 05/11/2018; 01 Phiếu đăng kí dự thi THPT Quốc gia năm 2018 Đại diện viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết, xét xử vụ án cũng như tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn trong vụ án đã chấp hành đúng quy định của pháp luật. Việc thu thập chứng cứ đảm bảo đúng quy định, đảm bảo quyền lợi của các đương sự. Đề nghị Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn do các bên đương sự đã có đơn xin xét xử vắng mặt hợp lệ. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh S, xác nhận cha cho cháu Trần Bảo C là anh Nguyễn Thanh S

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, nghe ý của nguyên đơn, ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Chị Trần Thị U hiện đang sinh sống và làm việc tại Hàn Quốc. Như vậy, đây là vụ án “Xác nhận cha cho con” mà bị đơn là công dân Việt Nam đang ở nước ngoài, theo quy định tại khoản 3 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm d khoản 1 Điều 469 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.

[1.2]. Về sự vắng mặt của bị đơn:

Sau khi thụ lý vụ án, theo địa chỉ của bị đơn chị Trần Thị U ở nước ngoài mà nguyên đơn cung cấp, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án theo phương thức tống đạt đến cơ quan Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc để tống đạt và thu thập chứng cứ đối với chị Trần Thị U theo quy định tại khoản 1 Điều 474, Điều 475 Bộ luật tố tụng dân sự . Căn cứ vào khoản 3 Điều 474 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã đề nghị cơ quan Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc tiến hành niêm yết công khai các tài liệu:

Đơn khởi kiện của anh Nguyễn Thanh S, Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về việc cung cấp lời khai, lài liệu, chứng cứ đối với chị Trần Thị U tại cơ quan Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc và thông báo trên Cổng thông tin điện tử của Cơ quan này.

Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã nhận được Bản tự khai và Đơn xin xét xử vắng mặt ngày 10 tháng 5 năm 2022. Nhận được lời khai của chị Trần Thị U nhưng không có xác nhận của Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc, Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 1097/2022/QĐ-TCGĐ ngày 23/5/2022 trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Bình thực hiện giám định chữ: U (ký tên) và chữ viết họ tên: Trần Thị U. Kết luận Giám định số 637/KL-KTHS ngày 15/6/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Bình xác nhận mẫu cần giám định làBản tự khai và Đơn xin xét xử vắng mặt ngày 10 tháng 5 năm 2022 và các tài liệu đối chiếu hợp lệ gồm: 02 Phiếu thu tiền hồ sơ đi xuất khẩu lao động ngày 03/01/2018 và 05/11/2018; 01 Phiếu đăng kí dự thi THPT Quốc gia ngày 14/4/2018. Kết luận: Chữ ký dạng chữ viết “U”, chữ viết ghi rõ họ tên “Trần Thị U” tại vị trí góc dưới bên phải trên trang 1 và dưới mục “Người làm bản tự khai” trên các tài liệu cần giám định ký hiệu A so với chữ ký, chữ viết của Trần Thị U trên các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu từ M1 đến M3 là do cùng một người ký, viết ra. Do vậy có cơ sở để khẳng định Bản tự khai và Đơn xin xét xử vắng mặt ngày 10 tháng 5 năm 2022 của chị Trần Thị U là hợp pháp, đảm bảo quy định pháp luật Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 477 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị Trần Thị U.

[2]. Về nội dung:

Quá trình giải quyết vụ án, anh Nguyễn Thanh S có cung cấp kết quả phân tích huyết thống của Bệnh viện đa khoa MEDLATEC về giám định ADN huyết thống và Phiếu kết quả của Phòng xét nghiệm MEDLATEC Quảng Bình kết luận người có mẫu ADN ký hiệu HID2106023-1 (anh Nguyễn Thanh S) và người có mẫu ADN HID2106023-2 (cháu Trần Bảo C) có quan hệ huyết thống cha con. Biên bản xác minh ngày 24 tháng 5 năm 2022 của Toà án tạiPhòng khám chuyên khoa MEDLATEC chi nhánh Quảng Bình trùng khớp với kết quả giám định mà anh S cung cấp cho Toà án nên xét thấy không cần trưng cầu giám định lại ADN huyết thống cha con giữa anh Nguyễn Thanh Svà cháu Trần Bảo C.

Các bên đương sự là nguyên đơn anh Nguyễn Thanh S, bị đơn chị Trần Thị U, đại diện uỷ quyền nguyên đơn tham gia tố tụng ông Nguyễn Văn C (bố đẻ anh S) và xác minh tại bố đẻ chị U là ông Trần Xuân Cành đều trình bày cháu Trần Bảo C là con của anh Nguyễn Thanh S và chị Trần Thị U; Căn cứ vào lời khai của các bên đương sự xác định: Anh Nguyễn Thanh S và chị Trần Thị U gặp nhau và có quan hệ tình cảm trong thời gian cùng làm việc ở Hàn Quốc, chị U mang thai, sau đó anh S về Việt Nam, đến ngày 21/2/2020, chị U sinh cháu Trần Bảo C, đăng kí khai sinh tại Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc, trong giấy khai sinh chỉ có họ tên mẹ Trần Thị U và là người đăng ký khai sinh cho cháu Trần Bảo C. Hội đồng xét xử có căn cứ để chấp nhận yêu cầu của anh Nguyễn Thanh S, công nhận anh Nguyễn Thanh S là cha của cháu Trần Bảo C là phù hợp và có cơ sở.

[3]. Về án phí, chi phí tố tụng khác:

Anh Nguyễn Thanh S phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng và 3.484.000 đồng tiền chi phí tố tụng khác, bao gồm 244.000 đồng tiền chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài và 3.240.000 đồng tiền chi phí giám định chữ ký của chị Trần Thị U theo Phiếu thu số 637/PT-PC09(GĐ). Số tiền này ông Nguyễn Văn C đã nộp đủ thay cho anh Nguyễn Thanh S và đã chi xong.

[4]. Về quyền kháng cáo:

Anh Nguyễn Thanh S và chị Trần Thị U có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 479 Bộ Luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 4 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 37, khoản 4 Điều 147, Điều 207, Điều 227, Điều 238, Điều 273, điểm ekhoản 1 Điều 469; Điều 479 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBNTVQH ngày 30/12/2016 của Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án;

Áp dụng các điều: 88, 89, 91, 101và 102 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Thanh S về việc xác nhận cha cho con:

Xác nhận anh Nguyễn Thanh S là cha đẻ của cháu Trần Bảo C do chị Trần Thị U sinh ra tại Hàn Quốc vào ngày 21 tháng 2 năm 2020 (Nơi đăng ký khai sinh Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc vào số: 2537/2020; ngày tháng năm đăng ký 13/10/2020);

Các bên đương sự có trách nhiệm liên hệ với cơ quan đăng ký hộ tịch để điều chỉnh giấy khai sinh cho cháu Trần Bảo C 2.Về án phí, chí phí tố tụng khác:

- Án phí dân sự sơ thẩm: Anh Nguyễn Thanh S phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0004853 ngày 10/12/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình. Anh S đã nộp đủ án phí.

- Chi phí tố tụng khác: anh Nguyễn Thanh S phải chịu 3.484.000 đồng tiền chi phí tố tụng khác, công nhận đã nộp đủ và chi xong trong quá trình giải quyết vụ án.

5. Quyền kháng cáo:Nguyên đơn anh Nguyễn Thanh S vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết hợp lệ, bị đơn chị Trần Thị U vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày Bản án được tống đạt hợp lệ hoặc Bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

286
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về xác nhận cha cho con số 40/2022/DS-ST

Số hiệu:40/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Bình
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về