Bản án về việc tranh chấp hôn nhân gia đình số 75/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 75/2021/HNGĐ-ST NGÀY 13/09/2021 VỀ VIỆC TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH GIỮA CHỊ NGUYỄN THỊ MINH D VÀ ANH PHÙNG VĂN T 

Ngày 13/9/2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 320/2021/TLST-HNGĐ ngày 01/6/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 77/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 12/8/2021; quyết định hoãn phiên tòa số: 52/2021/QĐST-HNGĐ ngày 27/8/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Minh D, sinh năm 1997; địa chỉ: thôn, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Phùng Văn T, sinh năm 1993; địa chỉ: Thôn T, xã Thuyện S, tỉnh Tuyên Quang (vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các bản tự khai, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Minh D trình bày:

Chị và anh Phùng Văn T kết hôn năm 2014, trước khi kết hôn được tự do tìm hiểu, tự nguyện đến với nhau, không bị ai cưỡng ép, lừa dối kết hôn; được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương và đăng ký kết hôn ngày 18/7/2014 tại UBND xã Thượng Ấm, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Sau khi kết hôn vợ chồng làm ăn sinh sống tại thôn T, xã T, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc nhưng đến năm 2015 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hiểu nhau, tính tình không còn hòa hợp, không tìm được tiếng nói chung, không cùng chí hướng trong cuộc sống. Hai bên gia đình đã hòa giải nhiều lần nhưng không thành. Anh chị sống ly thân từ năm 2015 đến nay, không quan tâm, chăm sóc tới nhau nữa. Nay, chị xác định tình cảm vợ chồng đã hết, mâu thuẫn không thể hòa giải được, không thể tồn tại gia đình hạnh phúc nên chị làm đơn đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phùng Văn T.

Về con chung: Chị xác định chị và anh Phùng Văn T có 01 người con chung là cháu Phùng Thị Thanh T, sinh ngày 30/7/2014, hiện cháu còn nhỏ, đang ở cùng với ông bà nội. Khi ly hôn chị đề nghị được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu T vì cháu là con gái, cần sự quan tâm chăm sóc từ mẹ, bố cháu đi làm ăn trong miền nam, ít về nhà nên không thể trực tiếp chăm sóc cho cháu được. Chị không đề nghị anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, công nợ chung: Chị không đề nghị Toà án giải quyết.

Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án đã báo gọi anh Phùng Văn T đến Tòa án để giải quyết vụ án nhưng anh T đều không có mặt. Qua xác minh tại địa phương thì hiện nay anh Phùng Văn T vẫn đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn T, xã T, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, thỉnh thoảng anh T có về nhà.

Theo lời khai của bà Trần Thị K (là mẹ đẻ anh Phùng Văn T) thì anh T và chị D có được tự do tìm hiểu, tự nguyện đến với nhau, được gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Sau ngày cưới anh chị làm ăn, sinh sống tại thôn T, xã T, huyện Sơn Dương. Khoảng năm 2015 thì anh T và chị D có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hợp nhau, không còn yêu thương nhau. Hai bên gia đình đã khuyên bảo nhiều lần nhưng anh chị vẫn không thay đổi. Anh chị đã ly thân nhau từ năm 2015 tới nay không còn chung sống với nhau. Hiện nay, anh T đang đi làm ở tỉnh Bình Dương, có liên lạc với gia đình bà nhưng anh T đi làm tự do không cố định nên không rõ địa chỉ cụ thể. Gia đình bà có nhận được các thông báo, giấy triệu tập của Tòa án và đã thông báo cho anh T biết nhưng anh T nói bận việc và do dịch covid-19 tại tỉnh Bình Dương bùng phát, phải giãn cách xã hội nên anh không về giải quyết được.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đều đảm bảo đúng quy định. Đối với đương sự: Nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự; Bị đơn không chấp hành đúng theo quy định tại Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự (không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương).

Về việc giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng các Điều 28, 147, 227, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 56, 57, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

- Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Minh D được ly hôn với anh Phùng Văn T.

- Về con chung: Giao cháu Phùng Thị Thanh Tcho chị Nguyễn Thị Minh D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Phùng Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về án phí: Chị Nguyễn Thị Minh D phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

- Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Nguyễn Thị Minh D và anh Phùng Văn T kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 18/7/2014 tại UBND xã Thượng Ấm, vì vậy đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Chị D khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và giao nuôi con chung khi ly hôn, do vậy quan hệ pháp luật tranh chấp xác định là: Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Kết quả xác minh xác định anh Phùng Văn T đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn T, xã T, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Hiện anh T đi làm ăn xa nhưng không thông báo địa chỉ cụ thể nên không rõ anh T ở đâu làm gì nhưng anh T vẫn liên lạc, thỉnh thoảng về thăm gia đình.

Vì vậy, Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã gửi thông báo thụ lý vụ án và nhiều lần triệu tập anh T đến Tòa án để giải quyết, gia đình anh T đã thông báo cho anh T nhưng anh T vẫn không về, cũng không có ý kiến bằng văn bản về quan hệ hôn nhân giữa chị D và anh T, đây được xem là trường hợp người bị kiện cố tình che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ. Như vậy, anh T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Do đó, HĐXX căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.

[4] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Minh D và anh Phùng Văn T kết hôn với nhau trên cơ sở tự do tìm hiểu, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn ngày 18/7/2014 tại UBND xã Thượng Ấm là hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên, do cả hai không cùng chung sống, không quan tâm đến nhau và đã ly thân thời gian dài từ năm 2015 tới nay nên không thể tồn tại một gia đình hạnh phúc, tiến bộ.

Bản thân chị D xác định vợ chồng không còn tình cảm, không thể đoàn tụ được, chị D đã liên lạc, trao đổi với anh T về việc ly hôn, anh T nói nhất trí ly hôn với chị nhưng do anh đi làm ăn xa nên không về giải quyết được. Quá trình giải quyết vụ án, anh T không có mặt theo yêu cầu của Tòa án để tiến hành hòa giải, điều đó cho thấy anh T cũng không mong muốn hòa giải đoàn tụ. Từ những căn cứ trên xác định, tình trạng hôn nhân giữa chị D và anh T đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của chị D là chính đáng và có căn cứ phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Minh D là xử cho chị D được ly hôn với anh Phùng Văn T.

[5] Về con chung: Chị Nguyễn Thị Minh D và anh Phùng Văn T có 01 con chung là cháu Phùng Thị Thanh T, sinh ngày 30/7/2014. Xét thấy, cháu T còn nhỏ, cháu là con gái, từ lúc chị D anh T sống ly thân, cháu chủ yếu sống cùng với ông bà nội, anh T đi làm trong miền nam, thỉnh thoảng mới về thăm cháu. Cháu T có nguyện vọng được ở cùng anh T, tuy nhiên anh T không có địa chỉ cư trú rõ ràng, công việc không ổn định, đã đi làm trong miền nam từ nhiều năm nay, ít về địa phương nên không thể trực tiếp chăm lo cho cháu T. Chị D hiện có nơi cư trú ổn định, chị D làm lao động tự do tại khu vực huyện Sơn Dương, chị D có điều kiện chăm sóc cho cháu T hơn. Do đó, cần giao cháu T cho chị D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con và được quyền đi lại thăm con chung, không ai được cản trở.

[6] Về tài sản chung, công nợ chung: Chị Nguyễn Thị Minh D xác định không đề nghị Toà án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[7] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Minh D phải nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Anh T không phải nộp án phí.

[8] Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 147, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Minh D được ly hôn với anh Phùng Văn T.

2. Về con chung: Giao cháu Phùng Thị Thanh T, sinh ngày 30/7/2014 cho chị Nguyễn Thị Minh D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Phùng Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con và được quyền đi lại thăm con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Minh D phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003865 ngày 01/6/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sơn Dương. Anh Phùng Văn T không phải nộp án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về việc tranh chấp hôn nhân gia đình số 75/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:75/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:13/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về