TÒA ÁN NHẬN DÂN HUYỆN GÒ QUAO, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 55/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2021 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU LY HÔN VÀ YÊU CẦU NUÔI CON
Ngày 30 tháng 09 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang, đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 149/2021/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 04 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 05/07/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 40/2021/QĐST-HNGĐ ngày 22/07/2021 và Thông báo về việc mở lại phiên tòa số: 02/2021/TB-TA ngày 20/8/2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Ngọc Ph - sinh năm 1983 (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Số 126/4/1, đường L, khu phố Th, phường D, thành phố D, thành phố Bình Dương.
2. Bị đơn: Anh Châu Ngọc H - sinh năm 1985 (vắng mặt). Địa chỉ: Ấp A, xã Đ, huyện G, tỉnh Kiên Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 28/04/2021 nguyên đơn chị Bùi Thị Ngọc Ph trình bày: Tôi và anh Châu Ngọc H có tìm hiểu nhau trước nên năm vào 2007 thì chúng tôi được cha mẹ hai bên đứng ra tổ chức đám cưới theo phong tục của địa phương, hôn nhân tự nguyện và có đăng kí kết hôn tại UBND phường D, thành phố D, thành phố Bình Dương vào ngày 27/11/2007. Chúng tôi sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống rồi cải vả nên chúng tôi đã ly từ năm 2017 đến nay.
Nay, xét thấy cuộc sống hôn nhân không còn hàn gắn được nữa, vợ chồng không còn tình cảm với nhau nên tôi yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với chồng tôi là Châu Ngọc H.
Về con chung: Quá trình chung sống chúng tôi có 02 người con chung tên Châu Ngọc Mẫn Nh - sinh ngày 10/01/2008 và Châu Tuấn K - sinh ngày 27/9/2016, hiện nay con đang sống với tôi nên tôi yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả 02 con và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Tôi xác định vợ chồng không có tài sản và không có thiếu nợ ai nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Nguyện vọng:
Về hôn nhân: Tôi xin được ly hôn với chồng tôi là Châu Ngọc H.
Về con chung: Tôi yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả 02 cháu Châu Ngọc Mẫn Nh - sinh ngày 10/01/2008 và Châu Tuấn K - sinh ngày 27/9/2016. Tôi không yêu cầu anh Châu Ngọc H cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Như tôi đã trình bày trên nên tôi không có yêu cầu gì thêm.
Đối với bị đơn anh Châu Ngọc H trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh H nhiều lần nhưng anh vắng mặt không có lý do.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang có ý kiến:
Về tố tụng: Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, người tham gia tố tụng; việc thu thập tài liệu, chứng cứ, cấp tống đạt cho người tham gia tố tụng và Viện kiểm sát đúng quy định. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự chấp hành đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đối với bị đơn anh H đã được thông báo tống đạt đúng quy định nhưng vắng mặt tại phiên tòa là không tuân thủ quy định của pháp luật. Nguyên đơn chị Ph có đơn xin xét xử vắng mặt là đúng quy định.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai của đương sự cũng như tại phiên tòa hôm nay, đối chiếu với các quy định của pháp luật đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị Bùi Thị Ngọc Ph được ly hôn với anh Châu Ngọc H. Về con chung: Giao cả 02 cháu Châu Ngọc Mẫn Nh - sinh ngày 10/01/2008 và Châu Tuấn K - sinh ngày 27/9/2016 cho chị Ph tiếp tục chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con: Miễn xét. Về tài sản chung và nợ chung: Miễn xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện các chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Tranh chấp giữa chị Bùi Thị Ngọc Ph và anh Châu Ngọc H là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại Điều 28 và Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Nguyên đơn chị Bùi Thị Ngọc Ph và anh Châu Ngọc H vắng mặt tại phiên tòa nhưng chị Ph có đơn xin xét xử vắng mặt còn bị đơn anh Châu Ngọc H được Tòa án tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật nhưng anh vắng mặt tại phiên tòa không có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị Ph, anh H là phù hợp.
[2] Về hôn nhân: Chị Bùi Thị Ngọc Ph và anh Châu Ngọc H kết hôn với nhau vào năm 2007, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức đám cưới theo phong tục địa phương và có đăng ký kết hôn tại UBND phường D, thành phố D, thành phố Bình Dương vào ngày 27/11/2007. Như vậy, Hội đồng xét xử xác định hôn nhân của chị Ph và anh H là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
[3] Xét về quan hệ hôn nhân cho thấy: Hôn nhân của chị Ph và anh H là hôn nhân tự nguyện, tuy trước khi kết hôn anh chị có tìm hiểu nhau trước nhưng chưa tìm hiểu kỷ cá tính của nhau nên khi xác lập cuộc sống chung vợ chồng thì lại bộc lộ ra những cá tính không phù hợp. Chị Ph cho rằng do tính tình không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống giữa vợ chồng nên anh chị đã ly thân từ năm 2017 đến nay. Ngày 27/5/2021 và ngày 15/6/2021 Tòa án đã đã tổ chức hòa giải để động viên, giải thích giúp vợ chồng anh chị đoàn tụ nhưng anh H không có mặt tại Tòa án nên Tòa án không thể ghi nhận ý kiến của anh H. Xét thấy, vợ chồng anh chị đã sống ly thân với nhau từ năm 2017 đến nay không thể hàn gắn được. Hơn nữa, trong quá trình giải quyết vụ án chị Ph đã tỏ rõ thái độ không còn tình cảm và yêu thương anh H và cương quyết xin ly hôn với anh. Từ đó, cho thấy mâu thuẫn anh chị đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Ph.
Đối với anh Châu Ngọc H, trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án kết hợp với chính quyền địa phương trực tiếp đến nhà anh H tống đạt các văn bản đúng theo qui định của pháp luật và anh không có mặt ở địa phương tại thời điểm tống đạt nhưng mẹ ruột anh là bà Lê Thị Tuyết Mai cũng là người sống chung nhà, có cùng hộ khẩu thường trú với anh H đã nhận thay anh H các văn bản tố tụng của Tòa án và cam kết giao lại cho anh. Do vậy, có đủ căn cứ xác định anh H đã biết được nội dung yêu cầu xin ly của chị Ph nhưng anh H không có mặt tại Tòa án để làm các văn bản gửi cho Tòa án nên không có căn cứ để xem xét ý kiến của anh. Do đó, HĐXX thống nhất xét xử vắng mặt anh theo qui định của pháp luật.
[4] Về con chung: Chị Ph xác định chị và anh H có 02 người con chung tên Châu Ngọc Mẫn Nh - sinh ngày 10/01/2008 và Châu Tuấn K - sinh ngày 27/9/2016, hiện các con đang sống cùng chị Ph nên chị yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cả 02 con chung. Xét yêu cầu nuôi con của chị Ph thấy rằng: Chị và anh H đã ly thân từ năm 2017 đến nay thì chị Ph một mình nuôi dưỡng cháu Nh và cháu K thi hai cháu vẫn phát triển bình thường như những đứa trẻ khác. Đồng thời, cháu Nhi cũng có nguyện vọng muốn sống với chị Ph khi anh chị ly hôn. Do đó, yêu cầu nuôi con của chị Ph là có căn cứ, phù hợp theo quy định của pháp luật nên HĐXX chấp nhận.
Anh Châu Ngọc H có quyền tới lui thăm nom con chung, không ai có quyền cản trở anh thực hiện quyền này. Khi cần thiết, anh chị có quyền làm đơn xin thay đổi quyền nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Do đương sự không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Ph xác định chị và anh H không có tài sản chung và không có thiếu nợ ai nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát có quan điểm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[8] Về án phí hôn nhân sơ thẩm là: 300.000 đồng chị Bùi Thị Ngọc Ph phải nộp do chị có yêu cầu xin ly hôn nhưng chị Ph được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp trước đây là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0002790, ngày 29/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang. Như vậy, chị Ph đã nộp đủ án phí hôn nhân sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các các Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 131 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Bùi Thị Ngọc Ph được ly hôn với anh Châu Ngọc H.
2. Về con chung: Giao cả 02 cháu Châu Ngọc Mẫn Nh - sinh ngày 10/01/2008 và Châu Tuấn K - sinh ngày 27/9/2016 cho chị Bùi Thị Ngọc Ph được tiếp tục chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng.
Anh Châu Ngọc H có quyền tới lui thăm nom con chung, không ai có quyền cản trở anh thực hiện quyền này. Khi cần thiết, anh chị có quyền làm đơn xin thay đổi quyền nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
3. Về cấp dưỡng nuôi con: Miễn xét.
4. Về tài sản chung và nợ chung: HĐXX miễn xét.
5. Về án phí hôn nhân sơ thẩm là: 300.000 đồng chị Bùi Thị Ngọc Ph phải nộp do chị có yêu cầu xin ly hôn nhưng chị Ph được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp trước đây là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0002790, ngày 29/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang. Như vậy, chị Ph đã nộp đủ án phí hôn nhân sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án là ngày 30/9/2021. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án về tranh chấp yêu cầu ly hôn và yêu cầu nuôi con số 55/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 55/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Gò Quao - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về