Bản án về tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại sức khỏe số 499/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 499/2022/DS-PT NGÀY 05/12/2022 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI SỨC KHỎE

Ngày 05 tháng 12 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 521/2022/TLPT-DS ngày 21/11/2022 về việc “Tranh chấp yêu cầu BTTH về sức khỏe”.Do Bản án dân sự sơ thẩm số 72/2022/DSST ngày 30/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội bị kháng cáo.

Theo Quyết định đua vụ án ra xét xử phúc thẩm số 488/2022/QĐ-PT ngày 22/11/2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Q, sinh năm 1995 Trú tại: Thôn Quang Ngọc, xã V, huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Trần T, sinh năm 1985.

Anh Nguyễn Hồng H, sinh năm 1976.

Anh Nguyễn Tùng D, sinh năm 2003.

Anh D Văn T, sinh năm 1994 Chị Kiều Thị T, sinh năm 1988.

Cùng trú tại: Thôn Quang Ngọc, xã V, huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội.

Đại diện theo ủy quyền của anh H, anh D, anh T là anh Nguyễn Trần T.

Do có kháng cáo của anh Nguyễn Trần T, anh Nguyễn Hồng H, anh Nguyễn Tùng D, anh D Văn T, chị Kiều Thị T là bị đơn trong vụ án.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo án sơ thẩm v án có nội dung như sau:

Nguyên đơn chị Trấn Thị Quỳnh trình bày:

Gia đình chị là hàng xóm của gia đình nhà anh Trung và giáp ranh về đất. Giữa hai gia đình có một khoảng tường do mẹ chị đập vì có tranh chấp, tại thời điểm đó mẹ chị bị bắt và hai gia đình có tranh chấp nên chính quyền địa phương yêu cầu hai bên không được xây dựng. Hôm đấy vào buổi sáng thì gia đình anh Trung gồm anh H và anh Trung và một người nữa tên là Thu người anh Trung thuê đến bắn tôn che kín chỗ thủng giữa hai nhà. Chị có gọi điện báo Công an về việc gia đình anh Trung cố tình xây dựng thì phía công an không đến nhưng có gọi điện nhắc nhở gia đình anh Trung không được che chắn bất cứ thứ gì vào khoảng trống giữa hai nhà và đến 11 giờ trưa gia đình nhà anh Trung cố tình che chắn bằng tấm thép dày khoảng 05-10 cm, rộng hơn 1m, cao hơn 2m. Khi gia đình anh Trung thực hiện việc che chắn thì chị có trèo lên tấm thép để ngăn cản thì khi đó anh H hô: “ ép chết mẹ nó đi”. Tại thời điểm đó có anh Nguyễn Tùng D, anh D Văn T, anh Nguyễn Trần T, anh Nguyễn Hồng H dựng tấm thép lên và ép chị vào tường khi đó chị có kêu lên, sau đó chị T vào cùng bốn người kia ép cùng. Chị Dương Thị Thìn thấy chị kêu thì đi đến đẩy chị ra nhưng do ép chặt quá nên chị bị kẹp 2 đầu gối giữa tấm thép và tường. Sau đó em trai chị tên là Trần Vinh thấy chị bị ép đau đớn quá thì lấy cây chống đẩy tấm thép, sau đó thì tấm thép được hạ xuống. Sau khi sự việc xảy ra chị có ra Công an xã V trình báo toàn bộ sự việc trên. Công an có hỏi chị có bị gì không thì khi đó chị có nói là hai khuỷu tay bị trầy xước, hai đầu gối bị xưng đỏ đến hôm sau thì tím đen. Đến chiều chị về nhà thì chị cảm thấy người nôn nao, khó thở đến tối khi đi ngủ thì cảm giác tê liệt chân tay. Sáng ngày hôm sau thì chị đến Bệnh viện Ba Vì khám và được giữ lại nằm viện vì chấn thương sọ não và chấn động não, chị nằm viện ở đó 01 tuần thì được bác sỹ cho ra viện, sau đó chị xuống viện Ba Vì khám lại và được chỉ định chị xuống Hà Nội khám lại. Một tuần sau chân tay chị vẫn run thì chị có đến Bệnh Viện 108 khám và cho đơn thuốc về nhà tự điều trị 01 tuần, về nhà được vài hôm thì chị bị đại tiểu tiện không tự chủ nên chị lại xuống Bệnh viện 108 khám và cho đơn thuốc về điều trị ảnh hưởng đến dây thần kinh. Sau đó bệnh viện 108 chuyển hồ sơ của chị sang bệnh viện Bạch Mai để khám về thần kinh. Tại bệnh viện Bạch Mai có cho chị về điều trị tại nhà, cho thuốc và tự tập những bài tập vật lý tại nhà.

Nay chị yêu cầu anh Trung, anh H, anh D, anh T, chị T phải bồi thường cho chị tổng số tiền là 30.000.000 đồng trong đó bao gồm: Tiền khám và chữa bệnh tại các bệnh viện khoảng hơn 10.000.000 đồng; Tiền thuê xe đưa đi khám chữa bệnh là: 5.000.000 đồng; tiền ăn uống là 10.000.000 đồng; chi phí phát sinh khác (bao gồm: tiền thuốc, tiền khám không có hóa hơn) số tiền là: 5.000.000 đồng. Ngoài các khoản yêu cầu nêu trên thì chị không có yêu cầu bồi thường thêm gì khác.

Bị đơn anh Nguyễn Trần T trình bày:

Anh là hàng xóm và có đất giáp ranh với bà Hoàng Thị Vân là mẹ của chị Quỳnh. Khoảng tháng 5 năm 2020 một phần tường giáp ranh nhà anh và nhà bà Vân bị thấm, dột nên anh đã tháo ra để xây dựng lại và xây lại tường theo nền móng tường cũ đã xây từ năm 2008. Suốt từ năm 2008- 2020 gia đình anh và gia đình bà Vân không xảy ra tranh chấp gì về đất đai. Sau khi anh xây dựng tường lên thì bà Vân cho rằng gia đình nhà anh lấn chiếm đất nhà bà 1,9m chiều rộng, 18m chiều dài. Sau đó gia đình nhà bà Vân, ông Thủy, anh Vinh, chị Quỳnh liên tục đập phá bức tường nhà anh đã xây và thường xuyên hất chất bẩn, chất thải vào trong nhà anh, chửi bới xúc phạm danh dự của gia đình nhà anh và tất cả những sự việc trên bên phía chính quyền, công an xã đã vào cuộc, bà Vân đã bị xử phải đi tù. Sau khi bức tường của gia đình anh bị đập phá thì anh có dựng 2 tấm thép lên để che chắn, do thời gian dài bị chất bẩn và chất thải nên bị rỉ sét và bốc mùi. Đến ngày 06/6/2021 thì anh và vợ cùng dọn dẹp đống đất cát ở phía tường bị che chắn. Sáng hôm đó thì thợ hàn xì là ông Thu sang để tháo tấm thép xuống nhưng sau đó chị Quỳnh sang yêu cầu không làm gì hết thì thợ hàn xì ra về và không làm gì nữa. Trong thời gian đó tấm thép được hạ xuống vợ chồng anh dọn dẹp và vệ sinh sạch sẽ. Công an có gọi điện nhắc nhở gia đình anh không được làm gì đến phần diện tích đang tranh chấp. Đến khoảng 11 giờ trưa thì anh dựng lại tấm thép lên mà khi sáng anh đã hạ xuồng. Anh có nhờ anh H, anh D, anh T sang để dựng lại tấm thép lên vị trí như cũ. Trong khi mọi người tất cả cùng dựng lên thì chị Quỳnh ở bên kia nhảy lên tấm thép dẫn ngược quay lại về phía các anh khiến các anh không dựng được lên nữa và phải hạ xuống trong thời gian từ lúc dựng lên đến khi hạ xuống khoảng 20 giây. Sau khi hạ xuống anh thấy chị Quỳnh ngồi trên tấm thép, mặt quay vào tường, lưng quay về phía các anh. Sau đó chị Quỳnh đứng dậy vung tay chửi bới xúc phạm gia đình nhà anh. Lúc đó anh không thấy chị Quỳnh bị trầy xước hay bầm tím chỗ nào cả. Khi đó có anh Tấn đến nhà anh chơi và chứng kiến toàn bộ sự việc. Khoảng hơn 11 giờ thì mọi người ra về chỉ còn chị Quỳnh đứng ở khoảng trống giữa hai nhà, anh không thấy chị Quỳnh bị trầy xước hay tổn thương ở đâu vẫn đi lại bình thường. Đến khoảng gần 6 giờ sáng ngày hôm sau anh trèo thang để che tấm bạt nilon vào chỗ trống giữa hai nhà, anh vừa buộc được một đầu ở phía trên thì chị Quỳnh chạy ra giật tấm bạt xuống và chửi anh. Sau đó anh đi vào luôn và anh không có hành động gì đối với chị Quỳnh.

Chị Quỳnh khai ép đầu chị vào tường là không đúng vì chị T đứng ở mép tấm thép không dùng tay đẩy tấm thép lên còn lại 4 người gồm anh, anh H, anh T, anh D đẩy tấm thép lên khoảng cách giữa tấm thép và bức tường còn rộng không đủ để làm tổn thương đến chị Quỳnh. Chị Quỳnh yêu cầu bồi thường số tiền mà chị Quỳnh vừa nêu trên thì anh không đồng ý.

* Anh Nguyễn Hồng H, Nguyễn Tùng D, anh D Văn T trình bày:

Anh H, anh D, anh T cùng nhất trí với quan điểm vừa trình bày của anh Trung. Khi đó có 4 người cùng dựng tấm thép thì chị Quỳnh nhảy lên tấm thép và chửi bới. Trong khi chị Quỳnh chửi bới thì anh H có bực tức và có nói là “dựng lên ép chết mẹ nó đi Chị T chỉ đứng ở dệ tấm thép và chị T có đến đẩy chị Quỳnh ra và bảo các anh hạ tấm thép xuống và hai bên có xô đẩy nhau, khi dựng lên thì đầu trên của tấm thép chéo nên không thể va đập vào đầu chị Quỳnh được. Chị Quỳnh khai bị xây sát thì theo anh có khả năng xảy ra nếu chấn thương sọ não thì không đúng vì hai bên không có va chạm đánh đập gì vì đứng sau tấm thép nên không nhìn thấy gì. Sau khi không dựng được thì các anh hạ xuống thì chị Quỳnh tiếp tục khuy chân múa tay chửi bới.

Hành vi của các anh không gây thương tích như chị Quỳnh trình bày nên các anh không bồi thường theo yêu cầu của chị Quỳnh. Nếu chị Quỳnh vu khống cho các anh thì chị Quỳnh phải bồi thường thiệt hại về danh dự, nhân phẩm và xin lỗi. Các anh H, Dương, Tiến đề nghị Tòa án giải quyết đúng quy định của pháp luật.

* Chị Kiều Thị T trình bày .

Chị là hàng xóm và có đất giáp ranh với bà Hoàng Thị Vân là mẹ của chị Quỳnh. Bức tường giáp ranh giữa nhà chị và nhà bà Vân là gia đình chị đứng ra xây từ năm 2008. Đến năm 2020 thì tường bao giữa hai nhà bị ẩm nên gia đình chị đã phá đi xây lại trên vị trí. Trong quá trình xây thì bà Vân chửi bới, khi xây thô xong thì bà Vân đập phá và gia đình xây lại tường như ngày hôm nay và bà Vân, chị Quỳnh, anh Vinh và bà Thủy đập phá thành lỗ thủng giữa hai nhà. Tháng 10 năm 2020 thì gia đình mua 2 tấm thép về che lỗ thủng ngăn cách giữa hai nhà. Sau đó thì bà Vân, chị Quỳnh đập làm bung một tấm, tấm còn lại thì lỏng lẻo và hàng ngày đổ chất thải, đất đá hất sang nhà chị. Đến ngày 06/6/2021 thì gia đình chị dọn dẹp sạch sẽ và hạ tấm thép còn lại xuống để vệ sinh cho sạch sẽ và sau đó dựng lại. Buổi sáng gia đình chị thuê thợ đến để hạ tấm thép khi đó khoảng 8 giờ sáng. Sau khi hạ tấm thép xuống thì chị Quỳnh nhẩy sang và chửi bới và không cho thợ làm tiếp. Đến khoảng 9 giờ sáng thì gia đình nhà chị lại dựng lại tấm thép thì chị Quỳnh lại sang chửi bới và không cho gia đình chị làm. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày thì chị có nhờ anh H, cháu Tiến, cháu Dương cùng anh Trung dựng lại tấm thép. Khi mọi người bắt đầu dựng tấm thép thì chị Quỳnh sang bên nhà chị đứng lên tấm thép chửi bới cản chở không cho gia đình chị dựng tấm thép lên. Khi tấm thép dựng lên khoảng cách của tấm thép cách tường 1m thì chị bấu tay vào dìa tấm thép và nói với mọi người “thôi không dựng nữa hạ xuống”. Khi đó chị Quỳnh đang đứng ở trong giữa tấm thép và bức tường. Sau đó chị và chị Quỳnh cãi nhau vài câu xong thì chị Quỳnh đi về còn chị đi vào. Khi đó chị nhìn thấy chị Quỳnh bình thường, chân tay không bị xây xát, đầu chị Quỳnh không bị tổn thương gì. Chị Quỳnh lấy tay phủi bụi bẩn trên người. Sáng sớm ngày hôm sau chị Quỳnh sang bên nhà chị để giật tấm bạt mà anh Trung đang che, thì nhà chị không che nữa.

Nay chị Quỳnh yêu cầu chị phải bồi thường thiệt hại cho chị Quỳnh thì chị không đồng ý. Vì chị Quỳnh không có tổn thương gì nên chị không phải bồi thường thiệt hại cho chị Quỳnh.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm s 72/2022/DSST ngày 30/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội đã quyết định:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Q.

Buộc anh Nguyễn Trần T, anh Nguyễn Hồng H, anh Nguyễn Tùng D, anh D Văn T phải liên đới bồi thường cho chị Trần Thị Q số tiền 7.213.500đ. Mỗi người phải bồi thường: 1.803.400đ Bác các yêu cầu khác của các đương sự.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Không nhất trí với quyết định của bản án sơ thẩm, bị đơn anh Nguyễn Trần T, anh Nguyễn Hồng H, anh Nguyễn Tùng D, anh D Văn T, chị Kiều Thị T kháng cáo đối với bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa:

Bị đơn Nguyễn Trần T, anh Nguyễn Hồng H, anh Nguyễn Tùng D, anh D Văn T do anh Nguyễn Trần T đại diện đề nghị HĐXX bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Bị đơn chị Kiều Thị T xin rút đơn kháng cáo.

Nguyên đơn chị Trần Thị Q đề nghị HĐXX giữ nguyên bản án sơ thẩm.

HĐXX công bố lời khai của các đương sự vắng mặt Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội:

Về tố tụng: Hội đồng xét xử và các đương sự tuân thủ đầy đủ các quy định của BLTTDS.

Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ kiện, đại diện VKS nhân dân Thành phố Hà Nội đề nghị HĐXX áp dụng Khoản 2 Điều 308 BLTTDS sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 72/2022/DSST ngày 30/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội theo hướng không chấp nhận khoản tiền công người chăm sóc chị Quỳnh 5 ngày là 1.000.000 đồng.

Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của chị T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa xét thấy:

Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị đơn anh Nguyễn Trần T, anh Nguyễn Hồng H, anh Nguyễn Tùng D, anh D Văn T, chị Kiều Thị T nộp trong hạn luật định, đã nộp dự phí kháng cáo, về hình thức là hợp lệ.

Về nội dung:

Nguyên đơn, bị đơn đều thừa nhận hai bên gia đình có bức tường giáp ranh giữa hai nhà. Giữa hai nhà có khoảng trống nên gia đình nhà anh Trung đã dựng tấm thép lên để làm vách ngăn giữa hai gia đình. Khi gia đình nhà anh Trung dựng tấm thép lên thì chị Quỳnh đã ngăn cản, đứng lên tấm thép và chửi bới. Phía gia đình nhà anh Trung tiếp tục dựng tấm thép lên dẫn đến việc ép chị Quỳnh vào tường. Tại hình ảnh video trong đĩa DVD do anh Trung cung cấp và tại hình ảnh video trong USB do chị Quỳnh cung cấp thể hiện toàn bộ sự việc xảy ra ngày 6/6/2022 đúng như các bên trình bày về việc dựng tấm ván lên và hai bên xảy ra mâu thuẫn. Do đây là sự việc xảy ra thật nên không phải chứng minh theo Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự. Sau khi sự việc xảy ra nguyên đơn đã trình báo công an xã V. Đồng thời nguyên đơn có đơn trình báo lên cơ quan điều tra Công an huyện Ba Vì. Căn cứ vào các tài liệu xác minh và kết quả giám định pháp y, CQĐT công an huyện Ba Vì không khởi tố vụ án hình sự.

Bị đơn xác định chỉ đẩy tấm thép lên và cho rằng không gây tổn thương gì đối với phần đầu của chị Quỳnh mà chỉ gây xây xát đối với tay, chân của chị Quỳnh. Tại hình ảnh video mà các bên cung cấp thì không thể hiện được cảnh chị Quỳnh bị ép như thế nào vì bị chắn bởi tấm thép. Xét lời khai của nguyên đơn là phù hợp với lời khai của nguyên đơn, bị đơn tại Cơ quan điều tra huyện Ba Vì mà tòa án thu thập được tại cơ quan điều tra công an huyện Ba Vì và các tài liệu chứng cứ khác. Từ đó có cơ sở để xác định anh Nguyễn Trần T, anh Nguyễn Hồng H, anh Nguyễn Tùng D, anh D Văn T là người dựng tấm tấm thép đã ép vào người chị Quỳnh và gây thương tích cho chị Quỳnh. Không đủ căn cứ xác định chị T là người cùng dựng tấm thép gây thương tích cho chị Quỳnh. Bị đơn kháng cáo cho rằng không có hành vi gây tổn thương đối với phần đầu của chị Quỳnh nhưng ngay sau khi xẩy ra sự việc chị Quỳnh đã ra công an trình báo. Bị đơn cũng không xuất trình được chứng cứ chứng minh việc chị Quỳnh bị thương tích là do nguyên nhân khác.

Xét về yêu cầu bồi thường của chị Quỳnh gồm: Tiền khám và chữa bệnh tại các bệnh viện khoảng hơn 10.000.000 đồng; Tiền thuê xe đưa đi khám chữa bệnh là: 5.000.000 đồng; tiền ăn uống là: 10.000.000 đồng; chi phí phát sinh khác (bao gồm: tiền thuốc, tiền khám không có hóa hơn) số tiền là: 5.000.000 đồng. Tổng cộng số tiền là 30.000.000 đồng.

Bản án sơ thẩm chấp nhận các chi phí khi điều trị tại Bệnh viện đa khoa huyện Ba Vì, còn lại các chi phí điều trị sau đó không đủ cơ sở chấp nhận là phù hợp. Những hóa đơn chứng từ có cơ sở chấp nhận cụ thể như sau:

Đối với chi phí có hóa đơn tiền nằm viện điều trị tại bệnh viện đa khoa huyện Ba Vì từ ngày 07/6/2021 đến 11/6/2021 là 5 ngày :

- Phiếu chỉ định và thu tiền ngày 07/6/2021: 196.200đ - Phiếu chỉ định và thu tiền ngày 07/6/2021: 43.900đ - Phiếu chỉ định và thu tiền ngày 07/6/2021: 650.000đ - Phiếu chỉ định và thu tiền ngày 09/6/2021: 40.400đ - Phiếu chỉ định và thu tiền ngày 09/6/2021: 32.800đ - Phiếu chỉ định và thu tiền ngày 09/6/2021: 115.000đ - Phiếu chỉ định và thu tiền ngày 09/6/2021: 65.400đ - Hóa đơn ngày 11/6/2021: 1.569.794đ.

Tổng cộng : 2.713.494đ.

- Tiền công người chăm sóc 5 ngày × 200.000đ/ngày = 1.000.000Đ.

- Tiền bồi dưỡng sức khỏe 5 ngày × 200.000Đ/ngày = 1.000.000Đ - Tiền mất thu nhập thực tế 200.000đ/ ngày × 5 ngày = 1.000.000Đ.

- Chi phí thuê xe từ nhà chị Quỳnh xuống bệnh viện đa khoa Ba Vì lượt đi và về là: 500.000đ. Tiền thuê xe đi giám định: 1.000.000Đ.

Tổng cộng : 7.213.494đ (làm tròn 7.213.500đ) Buộc anh Nguyễn Trần T, anh Nguyễn Hồng H, anh Nguyễn Tùng D, anh D Văn T, phải liên đới bồi thường cho chị Trần Thị Q số tiền: 7.213.500đ. Bác các yêu cầu khác của các đương sự.

Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội một phần phù hợp với nhận định của HĐXX.

Không chấp nhận kháng cáo của anh Nguyễn Trần T, anh Nguyễn Hồng H, anh Nguyễn Tùng D, anh D Văn T.

Tại phiên tòa phúc thẩm, chị T rút yêu cầu kháng cáo. Việc rút kháng cáo của chị T là tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của chị T.

Về án phí:

Án phí dân sự phúc thẩm:

Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận, Nguyễn Trần T, anh Nguyễn Hồng H, anh Nguyễn Tùng D, anh D Văn T mỗi người phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc, đối trừ vào số tiền dự phí kháng cáo đã nộp.

Do chị T rút đơn kháng cáo tại phiên tòa nên chị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm, đối trừ vào số tiền dự phí kháng cáo đã nộp.

Án phí dân sự sơ thẩm:

Anh Nguyễn Trần T, anh Nguyễn Hồng H, anh Nguyễn Tùng D, anh D Văn T mỗi người phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, áp dụng Khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số số 72/2022/DSST ngày 30/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 587, Điều 590 Bộ luật dân sự.

- Điều 26, 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Q.

Buộc anh Nguyễn Trần T, anh Nguyễn Hồng H, anh Nguyễn Tùng D, anh D Văn T phải liên đới bồi thường cho chị Trần Thị Q số tiền 7.213.500đ. Mỗi người phải bồi thường 1.803.400đ Bác các yêu cầu khác của các đương sự.

2. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của chị T

Về án phí:

Án phí dân sự phúc thẩm:

Nguyễn Trần T, anh Nguyễn Hồng H, anh Nguyễn Tùng D, anh D Văn T, chị Kiều Thị T mỗi người phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm, đối trừ vào số tiền dự phí kháng cáo đã nộp tại Biên lai thu số 0060407, 0060408, 0060409, 0060410, 0060411 ngày 14/9/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội.

Án phí dân sự sơ thẩm:

Anh Nguyễn Trần T, anh Nguyễn Hồng H, anh Nguyễn Tùng D, anh D Văn T, mỗi người phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

60
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại sức khỏe số 499/2022/DS-PT

Số hiệu:499/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 05/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về