Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 48/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HẢI, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 48/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Ngày 28 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 68/2022/TLST-HN ngày 21 tháng 2 năm 2022 về việc “tranh chấp xin ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

1/. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị L, sinh năm 1990 Địa chỉ: Xóm 5, xã NT, huyện NH, tỉnh Nam Định

2/. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1988 Địa chỉ: ấp CDA, xã LĐ, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu.

(Chị L có đơn xin vắng mặt, anh T vắng mặt không lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 21/02/2022 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Phạm Thị L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: chị và anh Nguyễn Văn T chung sống với nhau vào ngày 27/10/2008, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương. Đến nay anh chị đã con chung nhưng vẫn chưa đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.

Nguyên nhân ly hôn theo chị L xác định: Thời gian đầu chung sống với nhau thì vợ chồng anh chị sống hạnh phúc, nhưng sau khi cưới nhau được khoảng vài năm thì vợ chồng anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, cuộc sống vợ chồng ngày càng căng thẳng và không còn hạnh phúc. Lý do chính là do anh T không quan tâm lo làm ăn, không chăm sóc cho cuộc sống gia đình, anh T thường xuyên uống rượu, rồi gây sự chửi bới đánh đập chị nhiều lần. Đến năm 2014 thì vợ chồng chị đã sống ly thân, tuy nhiên đến năm 2019 thì anh T có xin chị tha thứ và vợ chồng có quay về chung sống với nhau. Thời gian chung sống được vài tháng thì chị phát hiện anh T đã có vợ khác và đã có con với người đó. Lúc này chị có yêu cầu ly hôn với anh T thì anh T không đồng ý và còn đánh đập chị. Vợ chồng anh chị tiếp tục sống ly thân từ khoảng tháng 6/2019 đến nay. Hiện tại hai vợ chồng không thể hàn gắn lại được và chị cũng không còn tình cảm với chồng chị, nên chị yêu cầu xin được ly hôn với chồng chị là anh T.

Về quan hệ con chung: chị L xác định thời gian chung sống vợ chồng anh chị có 01 người con chung tên Nguyễn Thị N, sinh ngày 14/4/2010, hiện nay đang sống với chị. Khi ly hôn chị L yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con.

Về T sản chung và nợ chung: chị L xác định vợ chồng anh chị không có T sản chung, không có nợ chung. Khi ly hôn chị L không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Đối với anh Nguyễn Văn T: Mặc dù anh T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập làm việc và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh T vẫn không đến Tòa án để làm việc theo nội dung giấy triệu tập của Tòa án, và cũng không có lý do chính đáng. Do đó, Tòa án sẽ tiến hành giải quyết vắng mặt đối với anh T theo đúng trình tự quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và của nguyên đơn là đúng theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn anh Nguyễn Văn T chấp hành chưa nghiêm theo giấy triệu tập của Tòa án.

Về nội dung vụ án: Chị L và anh T chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 9 và khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị L và anh T.

Về con chung: Từ lúc vợ chồng chị L và anh T ly thân đến nay thì người con tên Nguyễn Thị N, sinh ngày 14/4/2010 là do chị L trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục. Chị L vẫn đảm bảo về điều kiện nuôi con và sự phát triển của con sau này, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giao con cho chị L được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục là phù hợp.

Chị L không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con, nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Anh T có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.

Về T sản chung và nợ chung: Khi ly hôn chị L và anh T không đặt ra yêu cầu, nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Về án phí thì chị L phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: chị L có đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết về việc tranh chấp ly hôn với anh T. Anh T có địa chỉ cư trú tại huyện Đông Hải. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đông Hải.

Chị L có đơn yêu cầu được vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm. Căn cứ khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị L.

Anh T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, nhưng anh T vẫn vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh T.

[2] Về nội dung vụ án: chị L và anh T chung sống với nhau vào ngày 27/10/2008, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương, việc sống chung trên tinh thần tự nguyện, đến nay anh chị đã có con chung nhưng vẫn chưa đi đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Như vậy việc không đi đăng ký kết hôn giữa chị L và anh T là đã vi phạm khoản 1 Điều 9 và khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý”.

Khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng…” Do đó theo quy định của pháp luật thì hôn nhân giữa chị L và anh T không có giá trị pháp lý, không được pháp luật công nhận và bảo vệ. Nay chị L xin ly hôn với anh T thì Hội đồng xét xử không giải quyết cho chị L và anh T ly hôn với nhau, mà cần tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị L và anh T là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định tại khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về nuôi con chung: Từ lúc vợ chồng chị L và anh T ly thân đến nay thì người con tên Nguyễn Thị N, sinh ngày 14/4/2010 là do chị L trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục. Chị L vẫn đảm bảo về điều kiện nuôi con và sự phát triển của con sau này, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giao con cho chị L được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục là phù hợp với quy định của pháp luật, cũng như phù hợp với nguyện vọng của người con là Nguyễn Thị N, sinh ngày 14/4/2010.

Chị L không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Anh T có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.

[4] Về T sản chung và nợ chung: chị L và anh T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp, được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

Vì các lẽ nêu trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53, Điều 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1/. Về quan hệ hôn nhân: Tuyên bố không công nhận chị Phạm Thị L và anh Nguyễn Văn T là vợ chồng.

2/. Về nuôi con chung: Giao người con tên Nguyễn Thị N, sinh ngày 14/4/2010 cho chị L được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục.

Anh T có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.

Chị L không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

3/. Về quan hệ T sản chung và nợ chung: không đặt ra xem xét giải quyết.

4/. Về án phí hôn nhân và gia đình: chị Phạm Thị L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0002086 ngày 21 tháng 02 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hải.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho chị Phạm Thị L và anh Nguyễn Văn T biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 48/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:48/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về