Bản án về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn số 20/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁP MƯỜI, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 20/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/04/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN, NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN KHI LY HÔN

Trong các ngày 18 tháng 3 và ngày 18 tháng 4 N 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 384/2021/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 12 N 2021, về việc “Tranh chấp về hôn nhân gia đình xin ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 94/2022/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 02 N 2022, giữa:

Nguyên đơn: Nguyễn Thị T, sinh N 1974. Địa chỉ: Ấp 3, xã L, huyện T, Đồng Tháp.

Bị đơn: Đinh Văn Bé N, sinh N 1972.

Địa chỉ: Ấp 3, xã L, huyện T, Đồng Tháp.

(Chị T có mặt tại phiên tòa, anh Bé N vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, ý kiến tại biên bản không tiến hành hòa giải được và tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và chồng chị do quen biết nhau và được hai bên gia đình đồng ý tổ chức đám cưới vào năm 1996, nhưng do hoàn cảnh còn nghèo khó và làm ăn xa, nên không có đến Ủy ban nhân dân xã đăng ký kết hôn. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng thời gian sau khoảng tháng 03/2001, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn hay có lời qua, tiếng lại, anh Bé N thường xuyên nhậu nhẹt về đánh đập, chửi chị làm cho không khí gia đình lúc nào cũng căng thẳng. Chị đã nhiều lần cho anh Bé N cơ hội để hàn gắn tình cảm vợ chồng, nhưng anh Bé N vẫn không thay đổi. Do tình cảm vợ chồng không còn, hạnh phúc hôn nhân không đạt được, nên nay chị yêu cầu được ly hôn với anh Bé N.

- Về quan hệ nuôi con: Vợ chồng có 02 con chung tên Đinh Phi C, sinh năm 1996 và Đinh Thùy D, sinh năm 2001. Hiện 02 con chung đã trưởng thành về thể chất, tinh thần phát triển bình thường, tự lao động sinh sống được nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về quan hệ tài sản: Theo đơn khởi kiện thì chị trình bày về tài sản chung không có. Tại phiên tòa sơ thẩm, chị thay đổi trình bày là về tài sản chung vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về quan hệ nợ: Không có. Chị cam kết lời trình bày này của mình nếu sau này có ai kiện đòi nợ chị và anh Bé N thì chị xin chịu trách nhiệm cùng với anh Bé N. Ngoài ra, chị không còn trình bày hoặc yêu cầu gì khác.

* Bị đơn anh Đinh Văn Bé N mặc dù đã được Tòa án thông báo, triệu tập hợp lệ nhưng không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải, phiên tòa sơ thẩm và cũng không có văn bản ý kiến gì.

* Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ do đương sự cung cấp gồm:

- Nguyên đơn nộp các tài liệu, chứng cứ gồm:

+ Căn cước công dân tên Nguyễn Thị T, Đinh Văn Bé N và sổ hộ khẩu (bản photo).

+ Tờ tự khai (bản chính).

+ Giấy khai sinh con chung (bản photo).

+ Đơn xin xác nhận (bản chính).

- Bị đơn không có nộp tài liệu, chứng cứ gì.

- Tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập: Không.

Các tài liệu trong hồ sơ đương sự thống nhất theo biên bản phiên họp công khai và tiếp cận chứng cứ ngày 22 tháng 02 năm 2022.

* Các tình tiết, sự kiện trong vụ án các bên đương sự thống nhất: Không.

* Các tình tiết mà các bên đương sự không thống nhất: Toàn bộ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy: Căn cứ vào đơn khởi kiện của chị T về việc yêu cầu được ly hôn với anh Bé N. Ngoài ra, các đương sự không còn yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật của vụ án này là “Tranh chấp về hôn nhân gia đình xin ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền, Hội đồng xét xử xét thấy: Tranh chấp trên giữa các đương sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn hiện nay đang cư trú tại ấp 3, xã Láng Biển, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về tố tụng:

- Theo Quyết định hoãn phiên tòa số 160/2022/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 3 năm 2022 của Tòa án thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa là bà Nguyễn Thị Ngọc Diệu, Hội thẩm nhân dân là bà Nguyễn Thị Thúy An và ông Lê Văn Vững. Tuy nhiên, tại phiên tòa hôm nay do bà Diệu, bà An bận đi công tác đột xuất nên không thể tham gia phiên tòa thay thế bằng bà Phạm Thị Thi là Thẩm phán dự khuyết và bà Huỳnh Thị Kim Thơ là Hội thẩm nhân dân dự khuyết. Đương sự có mặt thống nhất đồng ý việc thay đổi này. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

- Tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn anh Bé N mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng nên Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh Bé N.

[4] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh Bé N tự nguyện quen biết nhau và được gia đình hai bên tổ chức đám cưới năm 1996, nhưng không có đăng ký kết hôn mặc dù cả hai đủ điều kiện kết hôn là vi phạm quy định tại Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986. Việc chung sống giữa chị T và anh Bé N không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ chồng, vì đây là hôn nhân không hợp pháp và không có giá trị pháp lý. Tại phiên tòa hôm nay, chị T yêu cầu được ly hôn với anh Bé N, do hôn nhân giữa chị T và anh Bé N không hợp pháp nên yêu cầu xin ly hôn của chị T không được chấp nhận, mà căn cứ vào Điều 9, khoản 1 Điều 14 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, không công nhận chị Nguyễn Thị T và anh Đinh Văn Bé N là vợ chồng.

- Về quan hệ nuôi con: Quá trình chung sống chị T và anh Bé N có 02 con chung tên Đinh Phi C, sinh năm 1996 và Đinh Thùy D, sinh năm 2001. Hiện 02 con chung đã trưởng thành về thể chất, tinh thần phát triển bình thường, tự lao động sinh sống được, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về quan hệ tài sản: Chị T trình bày vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết, còn anh Bé N thì không có ý kiến hoặc yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Nếu sau này, giữa hai bên có phát sinh tranh chấp về quan hệ tài sản thì sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.

- Về quan hệ nợ: Chị T trình bày không có. Chị cam kết lời trình bày này của mình nếu sau này có ai kiện đòi nợ chị và anh Bé N thì chị xin chịu trách nhiệm cùng với anh Bé N.

[5] Tại phiên không tiến hành hòa giải được và phiên tòa sơ thẩm thì đương sự có mặt xác định ngoài lời trình bày và các chứng cứ đã nộp cho Tòa án ra thì đương sự có mặt không còn chứng cứ nào khác để chứng minh cho yêu cầu của mình và cũng không yêu cầu Tòa án thu thập thêm chứng cứ nào khác. Ngoài ra, cũng không còn yêu cầu gì khác.

[6] Về án phí:

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, thì chị T phải nộp tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 235 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 9, khoản 1 Điều 14 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận chị Nguyễn Thị T và anh Đinh Văn Bé N là vợ chồng.

2. Về quan hệ nuôi con: Có 02 con chung tên Đinh Phi C, sinh năm 1996 và Đinh Thùy D, sinh năm 2001. Hiện 02 con chung đã trưởng thành về thể chất, tinh thần phát triển bình thường, tự lao động sinh sống được, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Về quan hệ tài sản: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về quan hệ nợ: Không có.

5. Về án phí:

Chị Nguyễn Thị T phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị T đã nộp theo biên lai số 0001600, ngày 15/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp. Chị T đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

6. Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án này lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

7. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

127
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn số 20/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:20/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tháp Mười - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về