Bản án về tranh chấp tiền hụi số 40/2020/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG MỸ, TỈNH HẬU GIANG

BN ÁN 40/2020/DS-ST NGÀY 17/06/2020 VỀ TRANH CHẤP TIỀN HỤI

Ngày 17 tháng 6 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:

103/2020/TLST-DS ngày 05 tháng 12 năm 2020, về việc “Tranh chấp tiền hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2020/QĐXXST-DS ngày 29 tháng 5 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị T, sinh năm 1985; cư trú tại: Ấp K, xã VA, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang.

- Bị đơn: Bà Võ Thị L, sinh năm 1972; cư trú tại: Ấp K, xã VA, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang.

Nguyên đơn có mặt; bị đơn vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Phạm Thị T trình bày:

Bà có tham gia chơi hụi dây hụi tháng 500.000đ, mở ngày 06/9/2017 âm lịch do bà Võ Thị L làm chủ. Hụi có 26 phần, bà tham gia 02 phần; đóng hụi sống được 16 lần đối với cả 02 phần, lần thứ 17 chưa đóng, đến kỳ mở hụi thứ 18 thì bà L tuyên bố úp hụi (bể hụi). Tính đến thời điểm úp hụi thì bà L còn nợ bà 16.000.000đ tiền hụi chưa thanh toán. Hiện dây hụi đã mãn. Ngày 06/6/2019, bà L hứa trả bà số tiền 8.000.000đ; đến ngày 06/7/2019 hứa trả tiếp số tiền 8.000.000đ nhưng đến nay bà L vẫn chưa trả tiền hụi cho bà. Bà nhiều lần yêu cầu bà L trả tiền nợ hụi nhưng bà L cứ hứa hẹn mà không thanh toán. Nay bà yêu cầu bà Võ Thị L phải trả cho bà tiền hụi còn nợ 16.000.000đ, không yêu cầu tính lãi.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn bà Võ Thị L trình bày:

Bà thừa nhận bà Phạm Thị T có tham gia chơi hụi do bà làm chủ. Sau khi úp hụi, bà và bà T có kết toán hụi với nhau; bà xác định còn nợ bà T số tiền hụi tổng cộng 16.000.000đ. Bà đồng ý trả số tiền hụi còn nợ cho bà T nhưng do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên bà yêu cầu được trả dần hàng tháng cho đến khi dứt nợ.

Tại phiên tòa, bà Võ Thị L vắng mặt. Bà Phạm Thị T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu bà Võ Thị L trả số hụi còn nợ 16.000.000đ, không yêu cầu tính lãi.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang trình bày quan điểm:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, các đương sự đã thực hiện đúng trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với bị đơn Võ Thị L, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng tại phiên tòa hôm nay vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định.

Về nội dung vụ án: Bà Võ Thị L thừa nhận số tiền hụi còn nợ bà Phạm Thị T là 16.000.000đ nhưng yêu cầu được trả dần hàng tháng cho đến khi dứt nợ. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 357, 468, 471 Bộ luật Dân sự 2015; Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27 tháng 11 năm 2006 của Chính phủ quy định về họ, hụi, biêu, phường. Tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị T; Buộc bà Võ Thị L phải trả cho bà Phạm Thị T số tiền hụi còn nợ 16.000.000đ. Về án phí, đương sự phải chịu theo quy định pháp luật.

Về thủ tục tố tụng:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Các đương sự thừa nhận có tham gi chơi hụi với nhau, hiện phát sinh tranh chấp về số tiền hụi còn nợ. Xác định đây là quan hệ pháp luật “Tranh chấp tiền hụi”. Căn cứ theo quy định tại Điều 26; Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang.

[2]. Đối với bị đơn bà Võ Thị L vắng mặt tại phiên tòa và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn nhưng vẫn đảm bảo quyền và nghĩa vụ hợp pháp cho đương sự theo quy định pháp luật.

Về nội dung vụ án:

[3]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ, qua kết quả tranh trụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:

[3.1]. Bà Phạm Thị T và bà Võ Thị L khai thống nhất có cùng tham gia chơi hụi đối với dây hụi mở ngày 06/9/2017 âm lịch. Dây hụi này do bà Võ Thị L làm chủ, gồm có 26 phần, bà T tham gia 02 phần. Sau các kỳ mở hụi thì bà T đều đóng hụi đầy đủ cho bà L, đến kỳ mở hụi thứ 18 thì bà L tuyên bố úp hụi. Tính đến thời điểm úp hụi thì bà T đã đóng được 16 lần cho cả 02 phần hụi, như vậy số tiền bà T được hưởng dây hụi này là 16.000.000đ. Kể từ ngày úp hụi đến nay bà L chưa thanh toán được khoản tiền nào cho bà T.

Quá trình giải quyết vụ án, bà L thừa nhận còn nợ bà T số tiền hụi 16.000.000đ và đồng ý trả cho bà T số tiền hụi này nhưng do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên đề nghị được trả dần hàng tháng cho đến khi hết nợ. Căn cứ Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự, thì việc bà L thừa nhận nợ là tình tiết không phải chứng minh; Tòa án ghi nhận ý kiến của bà L làm căn cứ giải quyết vụ án.

[3.2]. Xét thấy, việc thỏa thuận tham gia hụi của các bên là hoàn toàn trên cơ sở tự nguyện; bà L là chủ hụi và bà T là hụi viên; hụi có lãi theo hình thức hụi hưởng hoa hồng. Do quá trình tham gia hụi, bà L tuyên bố úp hụi nhưng chưa thánh toán tiền lại cho các hụi viên, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của họ nên yêu cầu khởi kiện của bà T là có căn cứ chấp nhận. Buộc bà Võ Thị L phải trả cho bà Phạm Thị T số tiền hụi còn nợ 16.000.000đ. Bà T không yêu cầu tính lãi nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4]. Về án phí: Căn cứ Điều 147; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bà Võ Thị L phải chịu 800.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 26, 35, 39, 147, 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Áp dụng Điều 357, 468, 471 Bộ luật Dân sự 2015; Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27 tháng 11 năm 2006 của Chính phủ quy định về họ, hụi, biêu, phường.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị T.

2. Buộc bà Võ Thị L phải trả cho bà Phạm Thị T số tiền hụi còn nợ 16.000.000đ (mười sáu triệu đồng).

3. Về án phí: Bà Võ Thị L phải chịu 800.000đ (tám trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Bà Phạm Thị T được nhận lại 400.000đ (bốn trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0001542 lập ngày 05 tháng 12 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang.

4. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận; trường hợp không thỏa thuận được mức lãi suất thì xác định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

6. Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (17/6/2020). Bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết, tống đạt theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

134
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp tiền hụi số 40/2020/DS-ST

Số hiệu:40/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Mỹ - Hậu Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 17/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về