Bản án về tranh chấp thừa kế tài sản số 484/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 484/2023/DS-PT NGÀY 19/12/2023 VỀ TRANH CHẤP THỪA KẾ TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh T xét xử công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số: 2672023/TLPT-DS, ngày 29 tháng 8 năm 2023 về việc “Tranh chấp về thừa kế tài sản”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 67/2023/DS-ST ngày 13 tháng 7 năm 2023, của Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu, tỉnh T bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 303/2023/QĐ-PT ngày 01 tháng 12 năm 2023, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trà Thị T, sinh năm 1944; địa chỉ: Tổ A, ấp T, xã S, Huyện D, tỉnh T; (có đơn xin vắng mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Phạm Văn T1 - Luật sư Công ty L, thuộc Đoàn luật sư tỉnh T; (có mặt).

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1974; địa chỉ: Tổ A, ấp T, xã S, Huyện D, tỉnh T; (có mặt).

Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Phạm Thế C, sinh năm 1987; địa chỉ: khu phố C, thị trấn D, Huyện D, tỉnh T; có mặt.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Ông Nguyễn Văn C1, sinh năm 1966; địa chỉ: Ấp T, xã S, Huyện D, tỉnh T; (có mặt).

3.2. Ông Nguyễn Văn T2, sinh năm 1965; địa chỉ: Ấp T, xã S, Huyện D, tỉnh T; (vắng mặt).

Người đại diện hợp pháp của ông T2: Anh Nguyễn Hồng V, sinh năm 1990; địa chỉ: Ấp T, xã S, Huyện D, tỉnh T, là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 14-4-2021); có mặt.

3.3. Bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1976, địa chỉ: Ấp T, xã S, Huyện D, tỉnh T; (Có mặt).

3.4. Bà Nguyễn Thị T3, sinh năm 1978; địa chỉ: số F, đường H, khu phố N, phường N, thành phố T, tỉnh T; (có mặt).

3.5. Bà Nguyễn Thị C2, sinh năm 1981; địa chỉ: Tổ A, ấp T, xã S, Huyện D, tỉnh T; (có mặt).

3.6. Bà Nguyễn Thị Ánh T4, sinh năm 1984; địa chỉ: Tổ A, ấp T, xã S, Huyện D, tỉnh T; (có mặt).

3.7. Ông Trần Tấn P1, sinh năm 1965; địa chỉ: F T, khu phố D, phường D, thành phố T, tỉnh T; (có đơn xin vắng mặt).

3.8. Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1970; địa chỉ: Ấp T, xã T, thành phố T, tỉnh T; (có đơn xin vắng mặt).

3.9. Bà Nguyễn Thị Thu V1, sinh năm 1972; địa chỉ: Ấp T, xã S, Huyện D, tỉnh T; (có đơn xin vắng mặt).

3.10. Ủy ban nhân dân Huyện D, tỉnh T.

Đại diện theo pháp luật: Ông Dương Văn Ư - Chức vụ: Chủ tịch Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn H1 - Chức vụ: Phó trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường Huyện D (Văn bản ủy quyền số 551/UBND ngày 13-5-2022); (có đơn xin vắng mặt).

Người kháng cáo: Bà Trà Thị T là nguyên đơn. Ông Nguyễn Văn H là bị đơn. Ông Nguyễn Văn C1, bà Nguyễn Thị P, Nguyễn Thị T3, Nguyễn Thị C2, Nguyễn Thị Ánh T4 là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 20-5-2019 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn cụ Trà Thị T trình bày:

Cụ T và cụ Nguyễn Văn Đ (đã chết năm 2003) có 08 người con gồm:

1. Con đầu tiên (chết lúc nhỏ), 2. Nguyễn Văn C1, sinh năm 1966, 3. Nguyễn Văn T2, sinh năm 1968, 4. Nguyễn Văn H, sinh năm 1974, 5. Nguyễn Thị P, sinh năm 1976, 6. Nguyễn Thị T3, sinh năm 1978, 7. Nguyễn Thị C2, sinh năm 1981, 8. Nguyễn Thị Ánh T4, sinh năm 1984.

Ngoài ra cụ Đ, cụ T không có riêng, con nuôi nào khác. Khi chết cụ Đ không để lại di chúc.

Cụ T, cụ Đ tạo lập được các tài sản và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt GCNQSDĐ) diện tích 45.000m2 thửa 292, 518, 132, 150, 151, 339, 340 tờ bản đồ số 8; thửa 1727, 1728, 1729 tờ bản đồ số 6; thửa 190 tờ bản đồ số 4; thửa 1790, 1907, 1908, 2138, 2139, 2140, 2141, 2142, 2171, 2172, 2173, 2175 tờ bản đồ số 7. Tuy nhiên thửa 2171, 2172, 2173, 2175 tờ bản đồ số 7 từ trước đến nay không ai quản lý sử dụng, đối với thửa 1905, 1906 (một phần thửa 73 BĐĐC 2010) cấp nhầm thửa sang cho ông Trần Tấn P1; thửa 2270, 2271, 272, 2273, 2275 (một phần thửa 85) chưa được cấp GCNQSDĐ. Đo đạc thực tế cụ thể như sau:

- Diện tích 29.191m2 thửa 12, 292, 518 tờ bản đồ 21, 08, đo đạc thực tế là 28.752,4m2 thửa 12, 36 tờ bản đồ 59, 60. Trong đó phần diện tích cụ T đang quản lý sử dụng là 7.264,6m2 thửa 12 tờ bản đồ 60; ông H đang đứng tên GCNQSDĐ là 17.355,2m2 thửa 12 tờ bản đồ 59; chị T4 đang quản lý sử dụng 4.132,6m2 thửa 36 tờ bản đồ 60. Trị giá đất theo chứng thư thẩm định là 27.427.192.747 đồng; công trình xây dựng trên đất trị giá 581.548.730 đồng, trị giá cây trồng trên đất là 334.760.000 đồng.

- Diện tích 6.365m2 thửa 132, 150, 151, 339, 340 tờ bản đồ số 08, đo đạc thực tế là 6.553,4m2 thửa 106, 121, 339, 240 tờ bản đồ 55, do cụ T đang quản lý sử dụng. Trị giá quyền sử dụng đất là 628.012.322 đồng.

- Diện tích 4.800m2 thửa 1727, 1728, 1729 tờ bản đồ số 6, đo đạc thực tế là 5.560,9m2 thửa 96 tờ bản đồ 55, do ông Nguyễn Văn T2 quản lý sử dụng. Trị giá quyền sử dụng đất là 413.892.226 đồng.

- Diện tích 10.620m2 thửa 190 tờ bản đồ số 4, đo đạc thực tế là 9.593,9m2 thửa 18 tờ bản đồ 19, do bà Nguyễn Thị Ánh T4 đang quản lý sử dụng. Trị giá quyền sử dụng đất là 886.130.980 đồng.

- Diện tích 8.200m2 thửa 1790, 1907, 1908, 2138, 2139, 2140, 2141, 2142 tờ bản đồ số 07, đo đạc thực tế diện tích 15.474,3m2 thửa 73, 85 tờ bản đồ 46, do bà P, bà T3, bà C2 đang quản lý sử dụng, cho ông D thuê trồng mãng cầu. Trị giá đất là 12.439.259.570 đồng, trị giá cây mãng cầu trên đất là 989.000.000 đồng.

Ngoài ra còn một số tài sản khác là quyền sử dụng đất nhưng đã cho ông Cl, ông T2, ông H xong, cụ thể:

- Cho ông C1 01 ha đất lúa ở xã P năm 1987, đến năm 1992 đã đăng ký kê khai để được cấp giấy; do khi khai phá chưa được cấp giấy, cha mẹ cho ông C1 thì ông C1 đăng ký kê khai đề được cấp GCNQSDĐ.

- Cho ông Nguyễn Văn T2 01 ha đất ruộng tọa lạc tại xã p vào năm 1991, đã đăng ký kê khai để được cấp GCNQSDĐ.

- Cho ông Nguyễn Văn H 0,8 ha đất ruộng tọa lạc tại ấp P, xã P và 0,75ha đất trồng cây lâu năm tọa lạc tại ấp T, xã S.

Nay cụ T yêu cầu hủy GCNQSDĐ đã cấp cho ông H đối với diện tích 16.886m2 thửa 12 tờ bản đồ 21 (thửa mới là 12 tờ bản đồ 59 diện tích 17.355,2m2), cụ T yêu cầu được chia 1/2 diện tích đất nêu trên, 1/2 diện tích đất còn lại cụ T yêu cầu chia thành 08 kỷ phần bằng nhau, chia cho ông C1, ông T2, ông H, bà P, bà T3, bà C2, chị T4 mỗi người được hưởng 01 kỷ phần.

Đối với diện tích 4.820m2 thửa 518 tờ bản đồ số 8 (thửa mới 36 tờ bản số 60 diện tích 4.132,6m2) bà T4 đang sử dụng có nguồn gốc nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Văn H nhưng hiện nay chưa làm thủ tục tách thửa sang tên, GCNQSDĐ cụ Đ vẫn còn đang đứng tên. Phần đất này trước đây cha mẹ ông cho ông H nhưng chưa sang tên, ông H bán phần đất này cho nhiều người, những người mua trả lại cho ông H, ông H bán cho bà T4. Nhiều lần bà T4 yêu cầu tách thửa sang tên, các anh em trong gia đình đều đồng ý nhưng ông H không đồng ý. Cụ T yêu cầu công nhận cho bà T4 sử dụng, không yêu cầu chia đối với phần đất này.

Bị đơn, ông Nguyễn Văn H và người đại diện hợp pháp của ông H thống nhất trình bày: Ông thống nhất mối quan hệ huyết thống và hàng thừa kế. Đối với yêu cầu hủy GCNQSDĐ 17.355,2m2 thửa 12 tờ bản đồ 59, ông không đồng ý vì cha mẹ đã cho vợ chồng ông trước đây, ông đăng ký kê khai đã được cấp GCNQSDĐ, ông trồng cây cao su trên đất và quản lý sử dụng cho đến nay. Đối với yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ Đ để lại, ông yêu cầu chia thành 08 kỷ phần nhưng ông yêu cầu được hưởng 04 kỷ phần, còn lại 04 kỷ phần yêu cầu được chia đều cho 08 người gồm bà T, ông C1, ông T2, bà P, bà T3, bà C2, bà T4 và ông.

Ông Nguyễn Văn C1 trình bày: Ông thống nhất quan hệ huyết thống và hàng thừa kế như cụ T trình bày. Khi còn sống, cha mẹ ông tạo lập được các tài sản diện tích 56.200 m2, trong đó đã được cấp GCNQSDĐ diện tích 45.000m2 thửa 292, 518, 132, 150, 151, 339, 340 tờ bản đồ số 8; thửa 1727, 1728, 1729 tờ bản đồ số 6; thửa 190 tờ bản đồ số 4; thửa 1790, 1907, 1908, 2138, 2139, 2140, 2141, 2142, 2171, 2172, 2173, 2175 tờ bản đồ số 7. Diện tích khoảng 1,6 ha chưa được cấp GCNQSDĐ, ông H đã tự ý đăng ký kê khai để được cấp GCNQSDĐ, hiện ông H đang quản lý sử dụng.

Ngoài ra còn một số tài sản khác là quyền sử dụng đất nhưng đã cho ông, ông T2, ông H xong, cụ thể:

- Cho ông 01 ha đất lúa ở xã P năm 1987, đến năm 1992 đã đăng ký kê khai để được cấp giấy.

- Cho ông Nguyễn Văn T2 01 ha đất ruộng tọa lạc tại xã P vào năm 1991, đã đăng ký kê khai để được cấp GCNQSDĐ.

- Cho ông Nguyễn Văn H 0,8ha đất ruộng tọa lạc tại ấp P, xã P và 0,75ha đất trồng cây lâu năm tọa lạc tại ấp T, xã S.

Cùng thời điểm cho ông H phần đất ở P thì cha mẹ cũng nói cho bà P, bà T3, bà C2 một phần đất diện tích khoảng 1,5 ha. Từ năm 1997 bà P, bà T3, bà Chính trực t quản lý sử dụng cho đến nay nhưng chưa được tách thửa sang tên. Ông H không đồng ý ký tên để tách thửa sang tên.

- Cho bà T4 một phần đất diện tích 10.620 m2 thửa 190 tờ bản đồ số 04 (đo đạc thực tế 9.593,9m2 thửa 18 tờ bản đồ 19), hiện nay bà T4 đang quản lý sử dụng từ năm 1997 cho đến nay, chưa được tách thửa sang tên do ông H không đồng ý.

- Đối với diện tích 4.820m2 thửa 518 tờ bản đồ số 8 (thửa mới 36 tờ bản số 60 diện tích 4.132,6m2) bà T4 đang sử dụng có nguồn gốc nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Văn H nhung hiện nay chưa làm thủ tục tách thửa sang tên, GCNQSDĐ cụ Đ vẫn còn đang đứng tên. Phần đất này trước đây cha mẹ ông cho ông H nhưng chưa sang tên, ông H bán phần đất này cho nhiều người nhưng chưa sang tên, những người mua trả lại cho ông H, ông H bán cho bà T4. Nhiều lần bà T4 yêu cầu tách thửa sang tên, các anh em trong gia đình đều đồng ý nhưng ông H không đồng ý.

- Đối với diện tích 16.886m2 thửa 12 tờ bản đồ 21 (thửa mới là 12 tờ bản đồ 59 diện tích 17.355,2m2) trước đây cụ Đ, cụ T trồng điều; lý do chưa cấp GCNQSDĐ là do đất của cụ Đ và đất ông Trà Văn Q khi trước Bản đồ không ảnh chụp chỉ có một thửa, nếu đăng ký cấp giấy thì phải đo đạc lại, chưa kịp làm thủ tục cấp GCNQSDĐ thì cụ Đ mất. Sau đó ông H xin để trồng cao su và hứa mỗi năm cho cụ T 2.000.000 đồng, cụ T đồng ý. Hiện nay ông H đang quản lý sử dụng, đến khi tranh chấp tại Tòa án thì mới biết ông H đã tự đi đăng ký kê khai quyền sử dụng đất để được cấp Giấy, không được sự đồng ý của cụ T và anh em ông.

Nay ông yêu cầu chia cho cụ T được hưởng 1/2 tài sản, còn lại 1/2 tài sản chia di sản thừa kế theo quy định pháp luật, cụ thể chia các tài sản sau:

+ Diện tích 7.485m2 thửa 292 tờ bản đồ số 08 (thửa mới 12 tờ bản đồ 60 diện tích 7.264,6m2) trên đất có căn nhà cấp 4 ngói xưa.

+ Diện tích 6.365m2 thửa 132, 150, 151, 339, 340 tờ bản đồ 08 (thửa mới 106, 121, 339, 240 tờ bản đồ 55 diện tích 6.553,4m2).

+ Diện tích 4.800m2 thửa 1727, 1728, 1729 tờ bản đồ số 18 (thửa mới 96 tờ bản đồ 55 diện tích 5.560,9m2).

+ Diện tích 15.474,3m2 thửa 73, 85 tờ bản đồ 46.

+ Diện tích 10.620 m2 thửa 190 tờ bản đồ số 04 (đo đạc thực tế 9.593,9m2 thửa 18 tờ bản đồ 19).

+ Diện tích 16.886m2 thửa 12 tờ bản đồ 21 (thửa mới 12 tờ bản đồ 59 diện tích 17.355,2m2) Bà Nguyễn Thị P trình bày: Bà thống nhất lời trình bày của ông C1 về quan hệ huyết thống. Bà yêu cầu chia cho cụ T được hưởng V2 tài sản, còn lại V2 tài sản chia di sản thừa kế theo quy định pháp luật, cụ thể chia các tài sản sau:

+ Diện tích 7.485m2 thửa 292 tờ bản đồ số 08 (thửa mới 12 tờ bản đồ 60 diện tích 7.264,6m2) trên đất có căn nhà cấp 4 ngói xưa.

+ Diện tích 6.365m2 thửa 132, 150, 151, 339, 340 tờ bản đồ 08 (thửa mới 106, 121, 339, 240 tờ bản đồ 55 diện tích 6.553,4m2).

+ Diện tích 4.800m2 thửa 1727, 1728, 1729 tờ bản đồ số 18 (thửa mới 96 tờ bản đồ 55 diện tích 5.560,9m2).

+ Diện tích 15.474,3m2 thửa 73, 85 tờ bản đồ 46.

+ Diện tích 10.620 m2 thửa 190 tờ bản đồ số 04 (đo đạc thực tế 9.593,9m2 thửa 18 tờ bản đồ 19).

+ Diện tích 16.886m2 thửa 12 tờ bản đồ 21 (thửa mới 12 tờ bản đồ 59 diện tích 17.355,2m2) Đối với diện tích 4.820m2 thửa 518 tờ bản đồ số 8 (thửa mới 36 tờ bản số 60 diện tích 4.132,6m2) công nhận cho bà T4 được hưởng do đất có nguồn gốc bà T4 mua của ông H.

Bà Nguyễn Thị T3 trình bày: Bà thống nhất lời trình bày của ông C1 về quan hệ huyết thống. Bà yêu cầu chia cho cụ T được hưởng 1/2 tài sản, còn lại 1/2 tài sản chia di sản thừa kế theo quy định pháp luật, cụ thể chia các tài sản sau:

+ Diện tích 7.485m2 thửa 292 tờ bản đồ số 08 (thửa mới 12 tờ bản đồ 60 diện tích 7.264,6m2) trên đất có căn nhà cấp 4 ngói xưa.

+ Diện tích 6.365m2 thửa 132, 150, 151, 339, 340 tờ bản đồ 08 (thửa mới 106, 121, 339, 240 tờ bản đồ 55 diện tích 6.553,4m2).

+ Diện tích 4.800m2 thửa 1727, 1728, 1729 tờ bản đồ số 18 (thửa mới 96 tờ bản đồ 55 diện tích 5.560,9m2).

+ Diện tích 15.474,3m2 thửa 73, 85 tờ bản đồ 46.

+ Diện tích 10.620 m2 thửa 190 tờ bản đồ số 04 (đo đạc thực tế 9.593,9m2 thửa 18 tờ bản đồ 19).

+ Diện tích 16.886m2 thửa 12 tờ bản đồ 21 (thửa mới 12 tờ bản đồ 59 diện tích 17.355,2m2) Đối với diện tích 4.820m2 thửa 518 tờ bản đồ số 8 (thửa mới 36 tờ bản số 60 diện tích 4.132,6m2) công nhận cho bà T4 được hưởng do đất có nguồn gốc bà T4 mua của ông H.

Bà Nguyễn Thị C2 trình bày: Bà thống nhất lời trình bày của ông C1 về quan hệ huyết thống. Bà yêu cầu chia cho cụ T được hưởng 1/2 tài sản, còn lại 1/2 tài sản chia di sản thừa kế theo quy định pháp luật, cụ thể chia các tài sản sau:

+ Diện tích 7.485m2 thửa 292 tờ bản đồ số 08 (thửa mới 12 tờ bản đồ 60 diện tích 7.264,6m2) trên đất có căn nhà cấp 4 ngói xưa.

+ Diện tích 6.365m2 thửa 132, 150, 151, 339, 340 tờ bản đồ 08 (thửa mới 106, 121, 339, 240 tờ bản đồ 55 diện tích 6.553,4m2).

+ Diện tích 4.800m2 thửa 1727, 1728, 1729 tờ bản đồ số 18 (thửa mới 96 tờ bản đồ 55 diện tích 5.560,9m2).

+ Diện tích 15.474,3m2 thửa 73, 85 tờ bản đồ 46.

+ Diện tích 10.620 m2 thửa 190 tờ bản đồ số 04 (đo đạc thực tế 9.593,9m2 thửa 18 tờ bản đồ 19).

+ Diện tích 16.886m2 thửa 12 tờ bản đồ 21 (thửa mới 12 tờ bản đồ 59 diện tích 17.355,2m2) Đối với diện tích 4.820m2 thửa 518 tờ bản đồ số 8 (thửa mới 36 tờ bản số 60 diện tích 4.132,6m2) công nhận cho bà T4 được hưởng do đất có nguồn gốc bà T4 mua của ông H.

Bà Nguyễn Thị Ánh T4 trình bày: Bà thống nhời lời trình bày của ông C1, bà P, Bà T3. Bà yêu cầu chia cho cụ T được hưởng 1/2 tài sản, còn lại 1/2 tài sản chia di sản thừa kế theo quy định pháp luật, cụ thể chia các tài sản sau:

+ Diện tích 7.485m2 thửa 292 tờ bản đồ số 08 (thửa mới 12 tờ bản đồ 60 diện tích 7.264,6m2) trên đất có căn nhà cấp 4 ngói xưa.

+ Diện tích 6.365m2 thửa 132, 150, 151, 339, 340 tờ bản đồ 08 (thửa mới 106, 121, 339, 240 tờ bản đồ 55 diện tích 6.553,4m2).

+ Diện tích 4.800m2 thửa 1727, 1728, 1729 tờ bản đồ số 18 (thửa mới 96 tờ bản đồ 55 diện tích 5.560,9m2).

+ Diện tích 15.474,3m2 thửa 73, 85 tờ bản đồ 46.

+ Diện tích 10.620 m2 thửa 190 tờ bản đồ số 04 (đo đạc thực tế 9.593,9m2 thửa 18 tờ bản đồ 19).

+ Diện tích 16.886m2 thửa 12 tờ bản đồ 21 (thửa mới 12 tờ bản đồ 59 diện tích 17.355,2m2) Đối với diện tích 4.820m2 thửa 518 tờ bản đồ số 8 (thửa mới 36 tờ bản số 60 diện tích 4.132,6m2) bà yêu cầu được công nhận cho bà được hưởng do đất có nguồn gốc bà mua của ông H, bà V1.

Anh Nguyên Hong V trình bày: Anh là con ruột của ông Nguyễn Văn T2. Anh đại diện theo ủy quyền của ông T2. Anh yêu cầu chia cho cụ T được hưởng 1/2 tài sản, còn lại 1/2 tài sản chia di sản thừa kế theo quy định pháp luật, ông T2 được hưởng 01 kỷ phần thừa kế theo quy định, cụ thể chia các tài sản sau:

+ Diện tích 7.485m2 thửa 292 tờ bản đồ số 08 (thửa mới 12 tờ bản đồ 60 diện tích 7.264,6m2) trên đất có căn nhà cấp 4 nưới xưa.

+ Diện tích 6.365m2 thửa 132, 150, 151, 339, 340 tờ bản đồ 08 (thửa mới 106, 121, 339, 240 tờ bản đồ 55 diện tích 6.553,4m2).

+ Diện tích 4.800m2 thửa 1727, 1728, 1729 tờ bản đồ số 18 (thửa mới 96 tờ bản đồ 55 diện tích 5.560,9m2).

+ Diện tích 15.474,3m2 thửa 73, 85 tờ bản đồ 46.

+ Diện tích 10.620 m2 thửa 190 tờ bản đồ số 04 (đo đạc thực tế 9.593,9m2 thửa 18 tờ bản đồ 19).

+ Diện tích 16.886m2 thửa 12 tờ bản đồ 21 (thửa mới 12 tờ bản đồ 59 diện tích 17.355,2m2) Đối với diện tích 4.820m2 thửa 518 tờ bản đồ số 8 (thửa mới 36 tờ bản số 60 diện tích 4.132,6m2) công nhận cho bà T4 được hưởng do đất có nguồn gốc bà T4 mua của ông H.

Ông Trần Tấn P1 trình bày: GCNQSDĐ của ông được cấp trong đó có thửa 1905, 1906 tờ bản đồ số 7; đây các thửa đất mà các con cụ T đang quản lý sử dụng, ông không sử dụng. Giữa đất của ông và thửa 1905, 1906 có ranh giới rõ ràng. Việc cấp nhầm thửa đất ông hoàn toàn không biết, Tòa án xem xét giải quyết theo quy định pháp luật, ông không tranh chấp với ai trong vụ án này.

Ông Nguyễn Văn D trình bày: Năm 2017 ông có thuê đất của cụ Trà Thị T để trồng mãng cầu, thời hạn thuê là 10 năm, có lập hợp đồng thuê đất ngày 25- 10-2017. Ông không tranh chấp và không có ý kiến gì trong vụ án này.

Bà Nguyễn Thị Thu V1 trình bày: Bà không nhớ rõ thời gian cụ thể nhưng trước khi bà và ông H ly hôn, do cần tiền trả tiền Ngân hàng nên có mượn bà T4 370.000.000 đồng để trả Ngân hàng. Sau khi vay lại tiền Ngân hàng thì bà nói với ông H bán luôn cho bà T4 diện tích đất khoảng hơn 4 công, giá bán là 1,2 tỷ/ha, có làm giấy tay bán đất cho bà T4. Sau khi ly hôn, bà T4 có trả thêm tiền cho ông H hay không thì bà không biết. Bà không tranh chấp với bà T4, ông H. Bà không yêu cầu bà T4 phải trả tiền cho bà, việc tranh chấp giữa bà T4 và ông H thì ông H tự quyết định, bà không tranh chấp gì trong vụ án này.

Tại phiên toà sơ thẩm, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày: Căn cứ vào lời khai và Hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H đối với diện tích 16.886m2 thửa 12 tờ bản đồ 21 (thửa mới 12 tờ bản đồ 59 diện tích 17.355,2m2), nguồn gốc phần đất này của cha mẹ ông H, ông H cho rằng ông được tặng cho vào năm 1986 là không có cơ sở, ông H cho rằng sau khi cụ Đ chết ông mới đăng ký kê khai để được cấp giấy, cơ quan có thẩm quyền chỉ căn cứ vào lời khai của ông H được tặng cho mà không xác minh thực tế và cấp giấy đất cho ông H là không đúng, bởi lẽ thời điểm cụ Đ đã chết, đã phát sinh thừa kế; hồ sơ cấp giấy đất không có cơ sở để xác định đất được tặng cho, không ký tứ cận, mà cho rằng niêm yết để cấp giấy đất là không đúng. Ông H cho rằng đã sử dụng lâu dài không ai ngăn cản là không đúng, việc ông H trồng cây cao su trên đất không có nghĩa là đồng ý cho ông H sử dụng; trước đây cụ Đ và cụ T quản lý sử dụng, sau khi cụ Đ chết thì ông H mới quản lý sử dụng chứ không phải đã sử dụng từ trước, đến khi khởi kiện đến Tòa án thì mới biết được ông H đã đăng ký kê khai để được cấp Giấy đất chứ không phải biết nhưng không ngăn cản, không có ý kiến. Ông H cho rằng được tặng cho và các anh em trong gia đình đồng ý ký tên là không có căn cứ. Mặt khác, khi vợ chồng ông H ly hôn thì ông H xác định phần đất trên là tài sản riêng của ông H, nay tại phiên tòa lại xác định đây là tài sản chung vợ chồng là mâu thuẫn, có cơ sở khẳng định việc cấp giấy đất cho ông H có vấn đề. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xác định đây là tài sản chung của cụ Đ, cụ T để chia cho cụ T 1/2 và 1/2 còn lại là di sản thừa kế theo quy định pháp luật. Ông H yêu cầu trích công sức đóng góp là không có cơ sở, lể ra người yêu cầu hưởng công sức đóng góp là cự T bởi đây là tài sản chung của cụ Đ, cụ T; không có nghĩa ông H quản lý sử dụng và được cấp giấy là làm gia tăng giá trị tài sản, ông H cũng đã trồng cây cao su trên đất và hưởng hoa lợi lợi tức từ cây cao su, mặt khác ông cũng không chăm sóc, phụng dưỡng cụ T nên không đồng ý trích công sức đóng góp cho ông H.

Tại Bản án Dân sự sơ thẩm số: 67/2023/DS-ST ngày 13 tháng 7 năm 2023, của Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu, tỉnh T đã quyết định:

Căn cứ vào các Điều 612, 623, 649, 651, 660 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 74, 157, 165, 227, 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của cụ Trà Thị T đối với ông Nguyễn Văn H về “Tranh chấp về thừa kế tài sản”.

2. Không chấp nhận yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H06233 do UBND Huyện D cấp ngày 23-6-2009 cho ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị Thu V1 diện tích 16.866m2 thửa 12 tờ bản đồ 21 (đo đạc thực tế 17.355,2m2 thửa 12 tờ bản đồ 59) 3. Chấp nhận yêu cầu độc lập về “Tranh chấp về thừa kế tài sản” của ông Nguyễn Văn C1, ông Nguyễn Văn T2, bà Nguyễn Thị P, bà Nguyễn Thị T3, bà Nguyễn Thị C2, bà Nguyễn Thị Ánh T4.

4. Cụ Trà Thị T được hưởng tài sản như sau:

Tài sản chung trị giá là 12.498.516.500 đồng và 01 suất thừa kế trị giá 1.562.314.563 đồng, tổng cộng là 14.060.831.063 đồng, cụ thể:

- Diện tích 3.977,4m2 một phần thửa 12 tờ bản đồ 60; công trình xây dựng trên đất trị giá 581.548.730 đồng, trị giá cây trồng trên đất là 53.160.000 đồng. Tổng cộng là 6.184.163.209 đồng. Có tứ cận:

+ Bắc giáp phần đất bà C2 được hưởng dài 46,73m + Nam giáp phần đất ông H được hưởng dài 50,53m và 21,12m + Đông giáp đường S - P;

+ Tây giáp thửa 12.

- Diện tích 3.276,7m2 thuộc các thửa 339, 240 và một phần thửa 121 tờ bản đồ 55 trị giá 314.006.161 đồng. Có tứ cận:

+ Bắc giáp phần đất ông C1 được hưởng dài 32,92m + Nam giáp đường xe + Đông giáp thửa 389 + Tây giáp thửa 337, 133 - Diện tích 2.780m2 thuộc một phần thửa 96 tờ bản đồ 55 trị giá 206.912.620 đồng. Có tứ cận:

+ Bắc giáp thửa 72 dài 36,63m và 8,08m;

+ Nam giáp thửa 90 dài 17m và 31,71 m;

+ Đông giáp phần đất ông T2 được hưởng dài 67,24m;

+ Tây giáp thửa 71 dài 54,79m.

- Diện tích 4.797,9m2 thuộc một phần thửa 18 tờ bản đồ 19 trị giá 443.153.236 đồng. Có tứ cận:

+ Bắc giáp đường đất;

+ Nam giáp thửa 24 dài 37,77m;

+ Đông giáp thửa 23 dài 99,05m và đường đất dài 35,30m + Tây giáp phần đất bà T4 được hưởng.

- Diện tích 7.737,1m2 thuộc một phần thửa 73, 85 tờ bản đồ 46 trị giá 6.219.589.592 đồng. Có tứ cận:

* Một phần thửa 73:

+ Bắc giáp thửa 60;

+ Nam giáp phần đất bà P, T, C2 được hưởng;

+ Đông giáp đất ông Nguyễn Hữu P2;

+ Tây giáp đường G.

* Một phần thửa 85:

+ Bắc giáp đất ông Nguyễn Hữu P2;

+ Nam giáp mương;

+ Đông giáp thửa 146, 147, 93;

+ Tây giáp đất bà P, T, C2 được hưởng.

5. Ông Nguyễn Văn C1 được hưởng phần đất diện tích 3.276,7m2 trị giá 314.006.161 đồng thuộc các thửa 106, một phần thửa 121. Có tứ cận:

+ Bắc giáp thửa 94, 126;

+ Nam giáp thửa 100, 107, 113 và phần đất cụ T được hưởng + Đông giáp thửa 85;

+ Tây giáp thửa 133.

- Diện tích 706,7m2 thuộc một phần thửa 12 tờ bản đồ 60 trị giá 945.481.591 đồng và giá trị chênh lệch tài sản là 302.826.811 đồng. Đất có tứ cận:

+ Bắc giáp phần đất ông T2 được hưởng dài 50,54m và 20,89m;

+ Nam giáp phần đất bà T4 được hưởng dài 50,54m và 20,77m;

+ Đông giáp đường A dài 10m;

+ Tây giáp thửa 12 dài 10m.

6. Ông Nguyễn Văn T2 được hưởng:

- Diện tích 2.780,9m2 thuộc một phần thửa 96 tờ bản đồ 55 trị giá 206.979.606 đồng. Có tứ cận:

+ Bắc giáp thửa 72;

+ Nam giáp thửa 105;

+ Đông giáp thửa 105, 89;

+ Tây giáp phần đất cụ T được hưởng - Diện tích 707,9m2 thuộc một phần thửa 12 tờ bản đồ 60 trị giá 946.780.528 đồng và giá trị chênh lệch là 408.554.429 đồng. Đất có tứ cận:

+ Bắc giáp phần đất ông H được hưởng dài 50,53m và 21,01m;

+ Nam giáp phần đất ông C1 được hưởng dài 50,54m và 20,89m;

+ Đông giáp đường A dài 10m;

+ Tây giáp thửa 12 dài 10m.

7. Ông Nguyễn Văn H được hưởng diện tích 709m2 thuộc một phần thửa 12 tờ bản đồ 60 trị giá 947.971.220 đồng và giá trị chênh lệch là 614.343.343 đồng. Đất có tứ cận:

+ Bắc giáp phần đất cụ T được hưởng dài 50,53m và 21,12m;

+ Nam giáp đất ông T2 được hưởng dài 50,53m và 21,01m;

+ Đông giáp đường A dài 10m;

+ Tây giáp thửa 12 dài 10m.

8. Bà Nguyễn Thị P, Nguyễn Thị T3, Nguyễn Thị C2 được hưởng chung: Diện tích 7.736,7m2 thuộc một phần thửa 73, 85 tờ bản đồ 46 trị giá 6.219.669.978 đồng. Đất có tứ cận:

* Một phần thửa 73:

+ Bắc giáp phần đất cụ T được hưởng;

+ Nam giáp thửa 140;

+ Đông giáp đất ông Nguyễn Hữu P2;

+ Tây giáp đường 790 dài 51,55m.

* Một phần thửa 85:

+ Bắc giáp đất ông Nguyễn Hữu P2 và một phần thửa 73;

+ Nam giáp mương;

+ Đông giáp phần đất cụ T được hưởng;

+ Tây giáp thửa 140, 142, 143, 144, 145.

9. Bà Nguyễn Thị C2 được hưởng diện tích 458,1m2 thuộc một phần thửa 12 tờ bản đồ 60 trị giá 661.158.780 đồng. Có tứ cận:

+ Bắc giáp thửa 298 dài 41m;

+ Nam giáp phần đất cụ T được hưởng dài 46,73m;

+ Đông giáp đường S - P dài 10m;

+ Tây giáp thửa 12 dài 10m.

10. Bà Nguyễn Thị Ánh T4 được hưởng:

- Diện tích 4.796m2 thuộc một phần thửa 18 tờ bản đồ 19 trị giá 442.977.744 đồng. Có tứ cận:

+ Bắc giáp đường đất dài 40,48m;

+ Nam giáp thửa 24 dài 33,12m;

+ Đông giáp đất cụ T được hưởng;

+ Tây giáp thửa 17.

- Diện tích 705m2 thuộc một phần thửa 12 tờ bản đồ 60 trị giá 944.182.655 đồng và giá trị chênh lệch là 175.154.164 đồng. Đất có tứ cận:

+ Bắc giáp phần đất ông C1 được hưởng dài 50,54m và 20,77m;

+ Nam giáp thửa 36 dài 50,54m và 20,65m;

+ Đông giáp đường A dài 10m;

+ Tây giáp thửa 12 dài 10m.

(Chia bằng hiện vật có kèm theo sơ đồ hiện trạng sử dụng đất)

11. Nghĩa vụ hoàn trả giá trị chênh lệch tài sản được hưởng:

Bà Nguyễn Thị P có nghĩa vụ hoàn trả cho ông Nguyễn Văn C1 302.826.811 (ba trăm lẻ hai triệu tám trăm hai mươi sáu ngàn tám trăm mười một) đồng và hoàn trả cho ông Nguyễn Văn H 103.434.578 (một trăm lẻ ba triệu bốn trăm ba mươi bốn ngàn năm trăm bảy mươi tám) đồng, hoàn trả cho ông Nguyên Văn T2 104.647.374 (một trăm lẻ bốn triệu sáu trăm bốn mươi bảy ngàn ba trăm bảy mươi bốn) đồng.

Bà Nguyễn Thị T3 có nghĩa vụ hoàn trả cho ông Nguyễn Văn H 510.908.764 (năm trăm mười triệu chín trăm lẻ tám ngàn bảy trăm sáu mươi bốn) đồng.

Bà Nguyễn Thị C2 có nghĩa vụ hoàn trả cho cụ Trà Thị T số tiền 693.006.326 (sáu trăm chín mươi ba triệu không trăm lẻ sáu ngàn ba trăm hai mươi sáu) đồng, hoàn trả cho ông Nguyễn Văn T2 số tiền 303.907.054 (ba trăm lẻ ba triệu chín trăm lẻ bảy ngàn không trăm năm mươi bốn) đồng, hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Ánh T4 175.154.164 (một trăm bảy mươi lăm triệu một trăm năm mươi bốn ngàn một trăm sáu mươi bốn) đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của bên được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

12. Ghi nhận các đương sự không yêu cầu giải quyết đối với quyền sử dụng đất diện tích 4.132,6m2 thửa 36 tờ bản đồ 60 trong vụ án này.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 26/7/2023 cụ Trà Thị T kháng cáo đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của cụ T (đề nghị chấp nhận phần diện tích ông H đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích: 16.866m2 thửa 12 tờ bản đồ 21, đo đạc thực tế 17.355,2m2 thửa 12 tờ bản đồ 59).

Ngày 26/7/2023 ông Nguyễn Văn C1, bà Nguyễn Thị P, bà Nguyễn Thị T3, bà Nguyễn Thị C2, bà Nguyễn Thị Ánh T4 kháng cáo đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của cụ T.

Ngày 27/7/2023 ông Nguyễn Văn H kháng cáo yêu cầu được hưởng công sức đóng góp, quản lý giữ gìn tôn tạo làm tăng giá trị tài sản và cho ông được hưởng toàn bộ di sản thừa kế bằng hiện vật.

Tại phiên toà phúc thẩm:

Các đương sự vẫn giữ yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo.

Ngày 31/10/2023 ông Nguyễn Văn H có yêu cầu xem xét thẩm định tại chỗ và yêu cầu định giá lại tài sản tranh chấp.

Ngày 28/11/2023 Tòa án tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ và định giá lại toàn bộ tài sản tranh chấp (do chứng thu thẩm định giá tài sản tranh chấp là ngày 12/11/2020). Tại chứng thư thẩm định giá ngày 15/12/2023 tài sản tranh chấp có giá trị như sau:

1- Diện tích 7.264,6m2 thửa 12 tờ bản đồ 60 trị giá 20.561.471.200 đồng; công trình xây dựng trên đất, trị giá cây trồng trên đất là 554.545.498 đồng.

2- Diện tích 6.365m2 thửa 132, 150, 151, 339, 340 tờ bản đồ số 08, đo đạc thực tế là 6.553,4m2 thửa 106, 121, 339, 240 tờ bản đồ 55, trị giá quyền sử dụng đất là 1.061.650.800 đồng.

3- Diện tích 4.800m2 thửa 1727, 1728, 1729 tờ bản đồ số 6, đo đạc thực tế là 5.560,9m2 thửa 96 tờ bản đồ 55, trị giá quyền sử dụng đất là 678.429.800 đồng.

4- Diện tích 10.620m2thửa 190 tờ bản đồ số 4, đo đạc thực tế là 9.593,9m2 thửa 18 tờ bản đồ 19, trị giá quyền sử dụng đất là 2.043.500.700 đồng.

5- Diện tích 8.200m2 thửa 1790, 1907, 1908, 2138, 2139, 2140, 2141, 2142 tờ bản đồ số 07, đo đạc thực tế diện tích 5.387m2 thửa 73 tờ bản đồ 46, trị giá đất là 17.443.106.000 đồng; diện tích 10.087,3m2 trị giá 1.351.698.200 đồng.

6- Diện tích 16.866m2thửa 12 tờ bản đồ 21 (đo đạc thực tế 17.355,2m2 thửa 12 tờ bản đồ 59) trị giá 3.540.460.800 đồng và 796 cây cao su 23 năm tuổi trị giá 199.000.000 đồng.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cụ T trình bày: Căn cứ hồ sơ cấp GCNQSDĐ của ông H, không có giấy tờ của cụ T, cụ Đ tặng cho ông H. Ông H được cấp GCNQSDĐ năm 2009 nhưng cụ Đ chết năm 2003, cụ Đ chết năm 2003 là thời điểm mở thừa kế của cụ Đ. Ông H tự ý làm GCNQSDĐ không được sự đồng ý của cụ T và các anh chị em là không đúng với quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của cụ T.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T:

Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, chuẩn bị xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử đều đảm bảo đúng quy định về thời hạn, nội dung, thẩm quyền của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với phiên tòa dân sự. Những người tham gia tố tụng đều thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình, chấp hành tốt nội quy phiên tòa;

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của cụ Trà Thị T, ông Nguyễn Văn C1, bà Nguyễn Thị P, bà Nguyễn Thị T3, bà Nguyễn Thị C2, bà Nguyễn Thị Ánh T4 và ông Nguyễn Văn H. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Trần Tấn P1, ông Nguyễn Văn D, bà Nguyễn Thị Thu V1, ông Nguyễn Văn H1 vắng mặt có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử vắng mặt các đương sự trên là đúng theo quy định quy định khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Nội dung vụ án: Cụ Được (chết năm 2003) và cụ T chung sống với nhau từ năm 1965. Khi cụ Đ còn sống thì cụ Đ và cụ T tạo lập được tài sản là quyền sử dụng đất. Ngày 01-8-1994 Ủy ban nhân dân Huyện D cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00278 QSDĐ/C1 cho cụ Nguyễn Văn Đ đứng tên diện tích 45.000m2 thửa 292, 518, 132, 150, 151, 339, 340 tờ bản đồ số 8; thửa 1727, 1728, 1729 tờ bản đồ số 6; thửa 190 tờ bản đồ số 4; thửa 1790, 1907, 1908, 2138, 2139, 2140, 2141, 2142, 2171, 2172, 2173, 2175 tờ bản đồ số 7.

Trong quá trình giải quyết vụ án, phần tài sản các đương sự thống nhất là di sản của cụ Đ bao gồm:

1- Diện tích 7.264,6m2 thửa 12 tờ bản đồ 60 trị giá 20.561.471.200 đồng; công trình xây dựng trên đất và cây trồng trên đất trị giá 544.545.498 đồng.

2- Diện tích 6.365m2 thửa 132, 150, 151, 339, 340 tờ bản đồ số 08, đo đạc thực tế là 6.553,4m2 thửa 106, 121, 339, 240 tờ bản đồ 55, do cụ T đang quản lý sử dụng. Trị giá quyền sử dụng đất là 1.061.650.800 đồng.

3- Diện tích 4.800m2 thửa 1727, 1728, 1729 tờ bản đồ số 6, đo đạc thực tế là 5.560,9m2 thửa 96 tờ bản đồ 55, do ông Nguyễn Văn T2 quản lý sử dụng. Trị giá quyền sử dụng đất là 678.429.800 đồng.

4- Diện tích 10.620m2thửa 190 tờ bản đồ số 4, đo đạc thực tế là 9.593,9m2 thửa 18 tờ bản đồ 19, do bà Nguyễn Thị Ánh T4 đang quản lý sử dụng. Trị giá quyền sử dụng đất là 2.043.500.700 đồng.

5- Diện tích 8.200m2 thửa 1790, 1907, 1908, 1905, 1906 tờ bản đồ số 07, đo đạc thực tế diện tích 5.387m2 thửa 73 tờ bản đồ 46, do bà P, bà T3, bà C2 đang quản lý sử dụng, cho ông D thuê trồng mãng cầu. Trị giá đất là 17.443.106.000 đồng. Diện tích 10.087,3m2 trị giá 1.351.698.200 đồng.

Phần các đương sự không thống nhất là di sản của cụ Đ là:

Diện tích 16.866m2 thửa 12 tờ bản đồ 21 (đo đạc thực tế 17.355,2m2 thửa 12 tờ bản đồ 59) cụ Đ cụ T khai phá nhưng chưa được cấp GCNQSDĐ, đến năm 2008 ông H đăng ký kê khai và được cấp GCNQSDĐ năm 2009.

[3] Xét yêu cầu kháng cáo của cụ T, ông C1, bà T4, bà C2, bà T3, bà P thấy rằng:

Nguồn gốc phần đất diện tích 16.866m2 thửa 12 tờ bản đồ 21 (đo đạc thực tế 17.355,2m2 thửa 12 tờ bản đồ 59) là do cụ Đ và cụ T khai phá nhưng chưa được cấp GCNQSDĐ, lý do chưa được cấp GCNQSDĐ là do nhầm thửa. Ồng H được cấp GCNQSDĐ số H06233 do UBND Huyện D cấp ngày 13/9/2009 cho ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị Thu V1 diện tích 16.866m2 thửa 12 tờ bản đồ 21 (đo thực tế 17.355,2m2).

Xét hồ sơ cấp GCNQSDĐ cho ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị Thu V1 thấy rằng: Trong hồ sơ thể hiện năm 2008 ông H đăng ký kê khai, tại bản khai trình bày cha mẹ cho con năm 1986, đến năm 2009 ông H và bà V1 được cấp GCNQSDĐ, ông H trình bày khi tiến hành thủ tục cấp GCNQSDĐ thì ông H được sự đồng ý bằng văn bản của cụ T cùng các anh chị em cho ông phần đất này nhưng ông cũng không có chứng cứ chứng minh. Tại Công văn số 109/CV- VPĐKĐĐ -CN ngày 06/7/2020 của Văn phòng Đ1 chi nhánh Huyện D cung cấp thông tin cho Tòa án qua rà soát hồ sơ lưu giữ, trong hồ sơ cấp GCNQSDĐ của ông Nguyễn Văn H không có giấy tờ tặng cho quyền sử dụng đất của cụ Nguyễn Văn Đ và cụ Trà Thị T đối với thửa đất số 12, tờ bản đồ số 21, diện tích 16.866m2.

Tại Quyết định số 24/2017/QĐST-HNGĐ ngày 19/01/2017 của Tòa án nhân Huyện Dương Minh Châu, tỉnh T ông H và bà V1 không yêu cầu Tòa án giải quyết tài sản chung và nợ chung. Ông H, bà V1 xác định diện tích 16.866m2 là tài sản riêng của ông H; bà V1 không tranh chấp với ông H đối với phần đất này nên ngày 03/3/2017 bà V1 tặng cho ông H quyền sử dụng đất này. Ngày 14/3/2017 ông H được cấp GCNQSDĐ diện tích 16.866m2 thửa 12, tờ bản đồ 59 theo GCNQSDĐ số CS03037.

Năm 2003 thì cụ Đ chết, thời điểm ông H đăng ký kê khai và GCNQSDĐ là sau khi cụ Đ chết, như vậy đối với quyền sử dụng đất đã được mở thừa kế của cụ Đ từ năm 2003. Cơ quan có thẩm quyền cấp GCNQSDĐ cho ông H, bà V1 không xem xét đến văn bản xác định ý chí của các đồng thừa kế mà chỉ dựa vào đơn ông H tự xác lập từ đó cấp GCNQSDĐ cho ông H, bà V1 là không đúng với quy định của pháp luật.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng từ sau khi ông H được cấp GCNQSDĐ, ông là người quản lý, sử dụng ổn định, trồng cây cao su trên đất cho đến nay, do đó đã chuyển thành quyền sử dụng đất hợp pháp của ông H là không có cơ sở, bởi lẽ phần đất này trước khi cụ Đ chết thì cụ Đ cùng với cụ T trồng điều, sau khi cụ Đ chết mới cho ông H trồng cao su trên đất để có thêm thu nhập chăm lo cho gia đình của ông H. Các bà T3, p, T4, C2, T2 cũng được cụ Đ và cụ T giao quản lý sử dụng đất từ năm 1992, 2000 và trồng cây mãng cầu cho đến nay. Mặt khác thì ông H cũng đã được cụ Đ, cụ T cho phần diện tích 1,55 ha toạ lạc ấp T, xã S và ấp P xã P đã tự đăng ký kê khai và được cấp GCNQSDĐ; cho ông C1 01 ha năm 1987, 1992 tự đăng ký kê khai và được cấp GCNQSDĐ; cho ông T2 01 ha năm 1991 tự đăng ký kê khai và được cấp GCNQSDĐ. Các bà T4, C2, T3, P cha mẹ chưa cho, có hứa cho phần các bà đang quản lý sử dụng nhưng ông H không đồng ý nên chưa được GCNQSDĐ .

Từ những phân tích trên cho thấy: Việc cấp GCNQSDĐ cho ông H, bà V1 không được sự đồng ý của các anh chị em, ông H được cấp GCNQSDĐ năm 2009 thời điểm cụ Đ đã chết năm 2003 là thời điểm mở thừa kế của cụ Đ nên có cơ sở xác định ông H tự ý đi đăng ký kê khai, không được sự đồng ý của cụ T và các anh chị em nên kháng cáo của cụ T, ông C1, bà bà T3, bà P, bà T4, bà C2 là có cơ sở chấp nhận. Xác định phần diện tích 16.866m2 thửa 12 tờ bản đồ 21 (đo đạc thực tế 17.355,2m2 thửa 12 tờ bản đồ 59) là tài sản của cụ Đ và cụ T và chia thừa kế theo quy định của pháp luật.

[4] Xét yêu cầu kháng cáo của ông H thấy rằng: Ông H đã được cụ T, cụ Đ cho phần diện tích 1,55 ha toạ lạc ấp T, xã S và ấp P xã P nhiều hơn các anh chị em khác, ông H đã sử dụng phần đất thu lợi tức từ việc trồng cao su, cũng như các anh em khác đều được giao đất từ khi cụ Đ còn sống để trồng lúa, mì và mãng cầu trên đất và hiện tại cụ T cũng đang quản lý tài sản nên yêu cầu được hưởng công sức đóng góp, quản lý giữ gìn tôn tạo làm tăng giá trị tài sản là không có cơ sở chấp nhận.

[5] Như vậy, tài sản chung của cụ Đ và cụ T gồm có:

1- Diện tích 7.264,6m2 thửa 12 tờ bản đồ 60 trị giá 20.561.471.200 đồng; công trình xây dựng trên đất, trị giá cây trồng trên đất là 554.545.498 đồng.

2- Diện tích 6.365m2 thửa 132, 150, 151, 339, 340 tờ bản đồ số 08, đo đạc thực tế là 6.553,4m2 thửa 106, 121, 339, 240 tờ bản đồ 55, do cụ T đang quản lý sử dụng. Trị giá quyền sử dụng đất là 1.061.650.800 đồng.

3- Diện tích 4.800m2 thửa 1727, 1728, 1729 tờ bản đồ số 6, đo đạc thực tế là 5.560,9m2 thửa 96 tờ bản đồ 55, do ông Nguyễn Văn T2 quản lý sử dụng. Trị giá quyền sử dụng đất là 678.429.800 đồng.

4- Diện tích 10.620m2thửa 190 tờ bản đồ số 4, đo đạc thực tế là 9.593,9m2 thửa 18 tờ bản đồ 19, do bà Nguyễn Thị Ánh T4 đang quản lý sử dụng. Trị giá quyền sử dụng đất là 2.043.500.700 đồng.

5- Diện tích 8.200m2 thửa 1790, 1907, 1908, 2138, 2139, 2140, 2141, 2142 tờ bản đồ số 07, đo đạc thực tế diện tích 5.387m2 thửa 73 tờ bản đồ 46, do bà P, bà T3, bà C2 đang quản lý sử dụng, cho ông D thuê trồng mãng cầu. Trị giá đất là 17.443.106.000 đồng. Diện tích 10.087,3m2 trị giá 1.351.698.200 đồng.

6- Diện tích 16.866m2thửa 12 tờ bản đồ 21 (đo đạc thực tế 17.355,2m2 thửa 12 tờ bản đồ 59) ông H đang quản lý sử dụng, trị giá 3.540.460.800 đồng và 796 cây cao su 23 năm tuổi trị giá 199.000.000 đồng.

Tổng cộng giá trị tài sản của cụ Đ và cụ T là: 47.224.862.998 đồng, trong đó tài sản của cụ T là 1/2 tương đương giá trị là 23.612.431.499 đồng. Năm 2003 cụ Đ chết không để lại di chúc, cụ Đ không nợ bất kỳ cá nhân, tổ chức nào khác. Căn cứ Điều 612 của Bộ luật dân sự 2015 xác định di sản thừa kế do cụ Đ để lại là 1/2 diện tích tương đương giá trị là 23.612.431.499 đồng.

[6] Xét yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ T.

Cụ T yêu cầu được chia 1/2 tài sản là hiện vật trong khối tài sản chung với cụ Đ. Như đã phân tích như trên, xác định tài sản chung của cụ Đ và cụ T 47.224.862.998 đồng. Xét thấy, cụ Đ và cụ T chung sống với nhau từ năm 1965. Năm 2003 cụ Đ chết, nên cụ T yêu cầu được chia 1/2 tài sản chung trong khối tài sản với cụ Đ là có căn cứ pháp luật, cụ T được hưởng tài sản chung là 1/2 diện tích đất nêu trên trị giá 23.612.431.499 đồng.

[7] Phân chia di sản thừa kế:

Cụ Được chết không để lại di chúc, do đó di sản được chia đều cho hàng thừa kế thứ nhất gồm: cụ T, ông C1, ông T2, ông H, bà P, bà T3, bà C2, bà T4 tương đương 01 kỷ phần thừa kế trị giá: 2.951.553.937 đồng.

Xét thấy, sau khi cụ Đ chết, các người con đã tự phân chia đất để sử dụng, trồng cây trên đất, hiện đang sử dụng ổn định nên cần tiếp tục chia cho người đang sử dụng được hưởng. Cụ T yêu cầu được chia tài sản chung bằng hiện vật. Xét thấy đây là tài sản chung của cụ Đ và cụ T, các cụ đã sinh sống trên đất, khai phá, sử dụng và được cấp GCNQSDĐ. Do đó xem xét chia cho cụ T phần đất có căn nhà trên đất diện tích 7.264,6m2 thửa 12 tờ bản đồ 60 và các phần đất khác cụ T được hưởng bằng hiện vật. Cụ thể:

1- Cụ T được hưởng tài sản chung trị giá là 23.612.431.499 đồng và 01 suất thừa kế trị giá 2.951.553.937 đồng, tổng cộng là 26.563.985.436 đồng, cụ thể:

+ Diện tích 5.801,1m2 thửa 12 tờ bản đồ 60 trị giá 16.398.649.200 đồng; công trình xây dựng trên đất, cây trồng trên đất là 554.545.498 đồng, tổng cộng là 16.953.194.698 đồng.

+ Diện tích 3.070m2 thuộc một phần thửa 73 tờ bản đồ 46 trị giá 9.940.660.000 đồng và cây trồng trên đất.

2- Ông C1 được hưởng phần đất diện tích 6.365m2 (đo đạc thực tế 6.553,4 m2) trị giá 1.061.650.800 đồng thuộc các thửa 106, 121, 339, 240 tờ bản đồ 50 và diện tích 662,6m2 thuộc một phần thửa 12 tờ bản đồ 60 (trong đó có 50m2 thổ cư còn lại là CLN) trị giá 1.889.903.137 đồng.

3- Ông T2 được hưởng diện tích 4.800m2 (đo đạc thực tế 5.560,9m2 thuộc thửa 96 tờ bản đồ 55 trị giá 678.429.800 đồng và diện tích 800,9m2 thuộc một phần thửa 12 tờ bản đồ 60 (trong đó có 50m2 thổ cư còn lại là CLN) trị giá 2.273.124.137 đồng.

4- Ông H được hưởng diện tích 16.866 m2 thửa 12 tờ bản đồ 21 (đo đạc thực tế 17.355,2m2 thửa 12 tờ bản đồ 59) trị giá 3.540.460.800 đồng và toàn bộ cây trồng trên đất.

5- Bà T4 được hưởng diện tích 10.620m2 (đo đạc thực tế 9.593,9m2 thuộc thửa 18 tờ bản đồ 19) trị giá 2.043.500.700 đồng và 908.053.273 tiền chênh lệch (ông H trả 588.906.863 đồng, bà T trả 319.146.374 đồng).

6- Bà P, bà T3, bà C2 được hưởng chung diện tích 2.317m2 và diện tích 10.087,3m2 thuộc một phần thửa 73, 85 tờ bản đồ 46 trị giá 8.854.661.811 đồng và toàn bộ cây trồng trên đất.

Ông H có nghĩa vụ thanh toán cho bà T4 số tiền 588.906.863 đồng, Cụ T5 thanh toán cho bà T4 319.146.374 đồng.

Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS03037 do UBND Huyện D cấp ngày ngày 14/3/2017 cho ông Nguyễn Văn H diện tích 16.866m2 thửa 12 tờ bản đồ 21 (đo đạc thực tế 17.355,2m2 thửa 12 tờ bản đồ 59) để cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H cho phù hợp với quyết định của bản án.

Cụ T5, ông T2, bà T3, bà T4, bà C2, bà P, ông C1 được quyền liên hệ Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp GCNQSDĐ và tài sản gắn liền với đất theo quyết định của bản án này.

Do kháng cáo của cụ T5, bà T3, bà T4, bà C2, bà P, ông C1 được chấp nhận nên cụ T5, bà T3, bà T4, bà C2, bà P, ông C1 không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm; ông H phải chịu án phí dân sự phúc thẩm 300.000 đồng do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận.

Án phí dân sơ thẩm được tính lại theo đúng quy định của pháp luật.

[8] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.

[9] Xét lời trình bày của người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho cụ T5 có căn cứ chấp nhận.

[10] Về chi phí tố tụng:

Chi phí đo đạc, định giá, xem xét, thẩm định tại chỗ là 135.000.000 đồng (cụ T5 tạm ứng 105.000.000 đồng, ông H tạm ứng 30.000.000 đồng). Các đương sự phải chịu tương ứng với phần tài sản được hưởng, cụ thể:

Cụ T5 phải chịu: 75.937.500 đồng, ông C1, ông T2, ông H, bà P, bà T3, bà C2, bà T4 mỗi người phải chịu 8.437.500 đồng. Cụ T5 đã nộp tạm ứng 105.000.000 đồng; ông H tạm ứng 30.000.000 đồng. Do đó ông C1, ông T2, bà P, bà T3, bà C2, bà T4 có nghĩa vụ hoàn trả cho cụ T5 29.062.500 đồng và ông H 21.562.500 đồng.

Cụ thể: ông T2, ông C1, bà C2 thanh toán cho cụ T5 mỗi người 8.437.500 đồng, bà P thanh toán cụ T5 3.750.000 đồng. Bà P thanh toán cho ông H 4.687.500 đồng, bà T4, bà T3 có nghĩa vụ thanh toán cho ông H mỗi người 8.437.500 đồng.

[11] Về án phí: Các đương sự phải chịu tương ứng với giá trị tài sản được hưởng theo Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Cụ T5 được miễn nộp tiền án phí.

Ông C1, ông H, ông T2, bà P, bà T3, bà C2, bà T4 mỗi người phải chịu: 91.031.078 đồng [72.000.000 đồng x (2.951.553.937 đồng - 951.553.937 đồng) x2%].

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của cụ Trà Thị T, ông Nguyễn Văn C1, bà Nguyễn Thị P, Nguyễn Thị T3, Nguyễn Thị C2, Nguyễn Thị Ánh T4.

- Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Văn H.

- Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 67/2023/DS-ST ngày 13 tháng 7 năm 2023, của Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu, tỉnh T.

Căn cứ vào các Điều 612, 623, 649, 651, 660 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 74, 157, 165, 227, 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của cụ Trà Thị T đối với ông Nguyễn Văn H về việc “Tranh chấp về thừa kế tài sản”.

2. Không chấp nhận yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H06233 do UBND Huyện D cấp ngày 23-6-2009 cho ông Nguyễn Văn H diện tích 16.866m2 thửa 12 tờ bản đồ 21 (đo đạc thực tế 17.355,2m2 thửa 12 tờ bản đồ 59).

3. Chấp nhận yêu cầu độc lập về “Tranh chấp về thừa kế tài sản” của ông Nguyễn Văn C1, ông Nguyễn Văn T2, bà Nguyễn Thị P, bà Nguyễn Thị T3, bà Nguyễn Thị C2, bà Nguyễn Thị Ánh T4.

3.1. Cụ Trà Thị T được hưởng tài sản chung trị giá là 23.612.431.499 đồng và 01 suất thừa kế trị giá 2.951.553.937 đồng , tổng cộng là 26.563.985.436 đồng, cụ thể:

+ Diện tích 5.801,1m2 thửa đất số 292, tờ bản đồ 8 (thửa mới thuộc 01 phần thửa 12 tờ bản đồ 60) trị giá 16.398.649.200 đồng; công trình xây dựng trên đất, cây trồng trên đất là 554.545.498 đồng, tổng cộng là 16.953.194.698 đồng. Có tứ cận: Đông giáp đường S-P và đường A; Tây giáp thửa 12; Nam giáp đất chia ông Nguyễn Văn T2; Bắc giáp thửa 298, tờ bản đồ 54.

+ Diện tích 3.070m2 thửa 1790,1905, 1906, 1907, 1908, tờ bản đồ số 7 (thửa mới thuộc một phần thửa 73 tờ bản đồ 46) trị giá 9.940.660.000 đồng và cây trồng trên đất. Có tứ cận: Đông giáp ông Nguyễn Hữu P2; Tây giáp đường 790; Nam giáp phần đất chia cho bà P, bà T3, bà C2; Bắc giáp thửa 60.

3.2- Ông Nguyễn Văn C1 được hưởng phần đất diện tích 6.365m2 thửa đất số 132, 150, 151, 339, 340 tờ bản đồ số 8 (đo đạc thực tế 6.553,4 m2 thuộc thửa 106, 121, 339, 240 tờ bản đồ 55) trị giá 1.061.650.800 đồng, có tứ cận: Đông giáp đường xe và các thửa đất số 389, 113, 107, 100; Tây giáp thửa đất 94 và 126; Nam giáp thửa 133, 337, 470; Bắc giáp thửa 85 và diện tích 662,6m2 thửa 292, tờ bản đồ 8 (thửa mới thuộc một phần thửa 12 tờ bản đồ 60 (trong đó có 50m2 thổ cư còn lại là CLN) trị giá 1.889.903.137 đồng. Có tứ cận: Đông giáp đường 16-16; Tây giáp thửa 12; Nam giáp thửa 36; Bắc giáp phần đất chia cho ông T2.

3.3- Ông Nguyễn Văn T2 được hưởng diện tích 4.800m2 thửa đất số 1727, 1728, 1729 tờ bản đồ số 6 (đo đạc thực tế 5.560,9m2 thuộc thửa 96 tờ bản đồ 55) trị giá 678.429.800 đồng. Có tứ cận: Đông giáp thửa 89, 105; Tây giáp thửa 71; Nam giáp thửa 90, 105; Bắc giáp thửa 72 và diện tích 800,9m2 thửa 292, tờ bản đồ 8 (thửa mới thuộc một phần thửa 12 tờ bản đồ 60 (trong đó có 50m2 thổ cư còn lại là CLN) trị giá 2.273.124.137 đồng. Có tứ cận: Đông giáp đường 16-16; Tây giáp thửa 12; Nam giáp phần đất chia cho ông Cl; Bắc giáp phần đất chia cho cụ T.

3.4- Ông H được hưởng diện tích 16.866m2 thửa 12 tờ bản đồ 21 (đo đạc thực tế 17.355,2m2 thửa 12 tờ bản đồ 59) trị giá 3.540.460.800 đồng và toàn bộ cao su trên đất. Có tứ cận: Đông giáp thửa 12; Tây giáp thửa 308, 287 tờ bản đồ 54; Nam giáp thửa 32 tờ bản đồ 59 và đường đất; Bắc giáp thửa 298, 322, tờ bản đồ 54.

3.5- Bà T4 được hưởng diện tích 10.620m2 thửa 190, tờ bản đồ 4 (đo đạc thực tế 9.593,9m2 thuộc thửa 18 tờ bản đồ 19) trị giá 2.043.500.700 đồng. Có tứ cận: Đông giáp đường đất và thửa 23; Tây giáp thửa 17, 27; Nam giáp thửa 24; Bắc giáp đường đất và 908.053.273 tiền chênh lệch (trong đó ông H trả 588.906.863 đồng, cụ T trả 319.146.374 đồng).

3.6- Bà Nguyễn P, Nguyễn Thị T3, Nguyễn Thị C2 được hưởng chung diện tích 2.317m2 thửa 1790, 1905, 1906, 1907, 1908 tờ bản đồ số 7 (thửa đất mới thuộc 01 phần thửa 73, tờ bản đồ 46) có tứ cận: Đông giáp ông Nguyễn Hữu P2; Tây giáp đường 790; Nam giáp thửa 140; Bắc giáp phần đất chia cho cụ T và 10.087,3m2 thuộc thửa 2140, 2141, 2139, 2138, 2142, 2273, 2271, 2270, 2275, 272 tờ bản đồ số 7 (thửa đất mới thuộc một phần thửa 85 tờ bản đồ 46) trị giá 8.854.661.811 đồng, có tứ cận: Đông giáp thửa 93, 147, 146; Tây giáp thửa 140, 142, 144, 145; Nam giáp thửa 115, 116; Bắc giáp đất ông Nguyễn Hữu P2.

Ông H có nghĩa vụ thanh toán cho bà T4 số tiền 588.906.863 đồng, Cụ T5 có nghĩa vụ thanh toán cho bà T4 319.146.374 đồng.

Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS03037 do UBND Huyện D cấp ngày ngày 14/3/2017 cho ông Nguyễn Văn H diện tích 16.866m2 thửa 12 tờ bản đồ 21 (đo đạc thực tế 17.355,2m2 thửa 12 tờ bản đồ 59) để cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H cho phù hợp với quyết định của bản án.

(Chia bằng hiện vật có kèm theo sơ đồ hiện trạng sử dụng đất) Kê từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của bên được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Cụ T5, ông T2, bà T3, bà T4, bà C2, bà P, ông C1 được quyền liên hệ Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo quyết định của bản án này.

4. Ghi nhận các đương sự không yêu cầu giải quyết đối với quyền sử dụng đất diện tích 4.132,6m2 thửa 36 tờ bản đồ 60 trong vụ án này.

5. Về án phí:

Cụ T5 được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí.

Ông Nguyễn Văn C1 phải chịu 91.031.078 đồng, khấu trừ tiền tạm ứng án phí ông C1 đã nộp 4.293.500 đồng theo biên lai thu số 0003507 ngày 15-7-2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự Huyện Dương Minh Châu, ông C1 còn phải nộp thêm số tiền 86.737.578 đồng.

Ông Nguyễn Văn T2 phải chịu 91.031.078 đồng, khấu trừ tiền tạm ứng án phí ông T2 đã nộp 4.293.500 đồng theo biên lai thu số 0003504 ngày 15-7-2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự Huyện Dương Minh Châu, ông T2 còn phải nộp thêm số tiền 86.737.578 đồng.

Ông Nguyễn Văn H phải chịu 91.031.078 đồng.

Bà Nguyễn Thị P phải chịu 91.031.078 đồng, khấu trừ tiền tạm ứng án phí bà P đã nộp 4.293.500 đồng theo biên lai thu số 0003505 ngày 15-7-2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự Huyện Dương Minh Châu, bà P còn phải nộp thêm số tiền 86.737.578 đồng.

Bà Nguyễn Thị T3 phải chịu 91.031.078 đồng, khấu trừ tiền tạm ứng án phí bà T3 đã nộp 4.293.500 đồng theo biên lai thu số 0003506 ngày 15-7-2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự Huyện Dương Minh Châu, bà T3 còn phải nộp thêm số tiền 86.737.578 đồng.

Bà Nguyễn Thị C2 phải chịu 91.031.078 đồng, khấu trừ tiền tạm ứng án phí bà C2 đã nộp 4.293.500 đồng theo biên lai thu số 0003503 ngày 15-7-2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự Huyện Dương Minh Châu, bà C2 còn phải nộp thêm số tiền 86.737.578 đồng.

Bà Nguyễn Thị Ánh T4 phải chịu 91.031.078 đồng, khấu trừ tiền tạm ứng án phí bà T4 đã nộp 4.293.500 đồng theo biên lai thu số 0003508 ngày 15-7- 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự Huyện Dương Minh Châu, bà T4 còn phải nộp thêm số tiền 86.737.578 đồng.

6. Chi phí tố tụng:

Cụ T5 phải chịu: 75.937.500 đồng, ông C1, ông T2, ông H, bà P, bà T3, bà C2, bà T4 mỗi người phải chịu 8.437.500 đồng. Cụ T5 đã nộp tạm ứng 105.000.000 đồng; ông H tạm ứng 30.000.000 đồng. Do đó ông C1, ông T2, bà P, bà T3, bà C2, bà T4 có nghĩa vụ hoàn trả cho cụ T5 29.062.500 đồng và ông H 21.562.500 đồng.

Cụ thể: ông T2, ông C1, bà C2 thanh toán cho cụ T5 mỗi người 8.437.500 đồng, bà P thanh toán cụ T5 3.750.000 đồng. Bà P thanh toán cho ông H 4.687.500 đồng, bà T4, bà T3 có nghĩa vụ thanh toán cho ông H mỗi người 8.437.500 đồng.

7. Về án phí dân sự phúc thẩm:

Ông Nguyễn Văn H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số: 0013759 ngày 03/8/2023 của chi Cục Thi hành án dân sự Huyện Dương Minh Châu, tỉnh T. Ghi nhận ông H đã nộp xong.

Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị P 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm theo biên lai thu số: 0013751 ngày 27/7/2023 của chi Cục Thi hành án dân sự Huyện Dương Minh Châu, tỉnh T.

Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị T3 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm theo biên lai thu số: 0013752 ngày 27/7/2023 của chi Cục Thi hành án dân sự Huyện Dương Minh Châu, tỉnh T.

Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị C2 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm theo biên lai thu số: 0013750 ngày 27/7/2023 của chi Cục Thi hành án dân sự Huyện Dương Minh Châu, tỉnh T.

Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Ánh T4 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm theo biên lai thu số: 0013749 ngày 27/7/2023 của chi Cục Thi hành án dân sự Huyện Dương Minh Châu, tỉnh T.

Hoàn trả cho ông Nguyễn Văn C1 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm theo biên lai thu số: 0013749 ngày 27/7/2023 của chi Cục Thi hành án dân sự Huyện Dương Minh Châu, tỉnh T.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

69
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp thừa kế tài sản số 484/2023/DS-PT

Số hiệu:484/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tây Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về