TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HN
BẢN ÁN 143/2021/DS-PT NGÀY 16/04/2021 VỀ TRANH CHẤP THỪA KẾ TÀI SẢN
Ngày 16 tháng 04 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thàn h p hố HN xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 590/2020/TLPT-DS ngày 15 tháng 12 năm 2020, về việc “Tranh chấp thừa kế tài sản”.
Do bản án sơ thẩm số 53/2020/DS-ST ngày 17/08/2020 củ a Tòa án nhân dân quận HĐ, thành p hố HN, bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử p húc thẩm số 98/2021/QĐ-PT ngày 16/03/2021; Quyết định hoãn p hiên toà dân sự p húc thẩm s ố 187/2021/QĐHPT - PT ngày 08 tháng 04 năm 2020, của Tòa án nhân dân thành p hố HN, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà V T V, sinh năm 1958; nơi đăng ký HKTT và trú tại: p hường P L, quận HĐ, thành p hố HN;
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho : Ông B T S, ông N V T - Lu ậ t sư văn p hòng luật sư Đ H, Đoàn luật sư thành p hố HN.
2. Bị đơn: Bà V T M, sinh năm 1961; nơi đăng ký HKTT và tr ú t ạ i: p hường P L, quận HĐ, thành p hố HN; người đại diện theo uỷ quyền : Ông M Đ Đ (theo giấy uỷ quyền ngày 06/01/2021).
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan :
3.1. Ông N Đ B, sinh năm 1952; trú tại: tổ d â n p h ố 9 , p h ường P L, quận HĐ, thành p hố HN;
3.2. Chị Đ T H, sinh năm 1981; Trú tại: p hường P L, q u ậ n HĐ, thành p hố HN;
3.3. Anh N Đ H, sinh năm 1983; Trú tại: tổ dân p hố 9 , p h ường P L, quận HĐ, thành p hố HN;
3.4. Chị Đ T H, sinh năm 1989; Trú tại: X K, thôn T , x ã C V , h u y ện T O , thành p hố HN;
3.5. UBND quận HĐ, thành phố HN. Đại diện theo p háp lu ậ t ô n g V N P - Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận HĐ; đại diện theo ủy quyền: Ông C V K - p hó trưởng p hòng Tài nguyên và môi trường qu ận HĐ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm, nội dung vụ á n như sau:
Tại đơn khởi kiện, trong quá trình tố tụng, nguyên đơn - bà V T V trình bày:
Sinh thời bố mẹ đẻ bà là cụ N V T (tức N V C) và cụ Đ T H s in h đ ược 0 3 người con là: V T H (sinh năm 1956, chết năm 1993 có chồng là N Đ B. Bà H, ông B sinh được ba người con là N Đ H, Đ T H, Đ T N); V T M, V T V.
Cụ T (C), cụ H tạo dựng được khối tài sản chung là thửa đất số 2 8 8 , t ờ b ả n đồ số 5, diện tích 315 m2, tại thôn N T, xã P L, huyện T O, tỉnh H T (nay là số 91 , tổ dân phố 9, phường P L, quận HĐ, thành phố HN).
Năm 1991, Cụ T (C), cụ H đã nhượng bán cho vợ chồng ông V V Đ, bà Đ T B 96 m2, còn lại diện tích 219 m2 gia đình bà quản lý sử dụng. Trên đất có 03 gia n nhà, hai gian bếp , sân, vườn và ngõ đi.
Mẹ bà là cụ H chết năm 2000, không để lại di chúc, Bố bà là Cụ T (C ) ch ết năm 2003 cũng không để lại di chúc.
Ba chị em bà đều được bố mẹ gả chồng, nhưng do không may mắn, Bà H thì chết sớm, bà M thì tan vỡ gia đình đưa con về nhà bố mẹ đẻ ở nhờ. Năm 1 9 9 0 , b à lấy chồng là L Đ T, bản thân bà sức khỏe yếu không làm được ruộng nên vẫn sống tại nhà bố mẹ đẻ và chỉ đi lại bên gia đình chồng. Bà sinh được hai con thì một con bị khuyết tật.
Đến năm 2000 chồng bà chết, bà M cố tình gây sự và cãi nh a u v ới b à n h iều lần, vì thế bà đưa các con đi ở nhờ trong xóm. Bà M cùng các con vẫn ở cùng bố mẹ bà. Sau khi bố mẹ bà chết , bà M vẫn sử dụng nhà đất của bố mẹ bà để lại.
Những năm gần đây do không có chỗ ở, bà nhiều lần yêu cầu bà M chia ch o bà hưởng thừa kế một p hần nhà đất do bố mẹ bà để lại, để làm chỗ ở, nhưn g b à M không đồng ý. Bà M đưa sổ đỏ đứng tên bà M và đưa ra một văn bản nói là di chúc của bố bà. Lúc này bà mới biết bà M đã tự ý kê khai và được UBND huyện T O, tỉnh H T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thửa đất số 288, tờ bản đồ s ố 05, diện tích 219 m2 đứng tên bà V T M, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận số 00607/QSDĐ-TO ngày 10/8/2003.
Từ khi bố mẹ bà chết, ba chị em bà chưa thỏa thuận p hân chia lần nào, cũ n g không đồng ý để bà M đứng tên chủ sử dụng đất.
Việc bà M tự ý kê khai đứng tên đất của bố mẹ bà vào năm nào bà kh ông rõ, bà M không nói gì với bà và những người liên quan khác, UBND xã P L cũng không thấy có thông báo gì với bà.
Bà đã yêu cầu UBND p hường P L giải quyết hòa giải nhưng kết quả hòa giải không thành.
Nay quan điểm của bà: Chia thừa kế nhà đất tại thửa đất s ố 2 8 8 , t ờ b ả n đ ồ số 05, diện tích 219 m2; tại địa chỉ số nhà 91, tổ 9 N T, p hường P L, quận HĐ, thành p hố HN của bố mẹ để lại theo quy định của pháp luật ; thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà V T M.
Trong quá trình tố tụng, bị đơn - bà V T M trình bày:
Thửa đất số 288, tờ bản đồ số 05; địa chỉ hiện nay số nhà 91, tổ 9 N T, p hường P L, quận HĐ, thành p hố HN được UBND hu y ện T O , t ỉn h H T (n a y là quận HĐ, thành p hố HN) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ch o b à t ừ n ă m 2003. Đây là tài sản mà bà đã được bố mẹ cho toàn quyền quản lý, sử dụng sau khi bố mẹ bà chết.
Nay bà V khởi kiện chia tài sản thừa kế của bố mẹ, bà k h ô n g đ ồ n g ý v ì b ố mẹ cho bà đã lâu.
Trong quá trình tố tụng , những người có quyền lợi và n g h ĩa vụ liên quan trình bày:
Ông N Đ B trình bày: Ông là chồng của bà V T H. N a y b à V y êu cầ u ch ia thừa kế p hần tài sản đất đai của bố mẹ để lại, là chồng của Bà H, nếu ông được hưởng, ông tự nguyện để lại cho bà V T V, vì hiện nay bà V có hoàn cảnh r ấ t k h ó khăn, không có chỗ ở.
Chị Đ T H, chị Đ T H, anh N Đ H trình bày: Anh chị là co n củ a ô n g N Đ B và bà V T H; mẹ anh chị đã chết năm 1993 không để lại di chúc. Việc đ ấ t đ a i củ a ông bà ngoại anh chị chia cho các con là bà V, bà M n h ư t h ế n à o a n h ch ị k h ô n g được biết. Nay bà V yêu cầu chia thừa kế theo p háp luật, là người th ừa k ế củ a B à H, p hần thừa kế mẹ anh chị được hưởng, anh chị cho bà V T V, v ì h iện n a y b à V có hoàn cảnh rất khó khăn, không có chỗ ở.
UBND phường PL có ý kiến tại công văn số 437/UBND-ĐC ngày 03/6/2019 (bút lụ c 127) Theo bản đồ, sổ mục kê năm 1997, thửa đất số 288 , tờ bản đồ số 5, diện tích 219 m2 trong đó 200 m2 đất ở, 19 m2 đất vườn t ạ p đ ứn g t ên chủ quản lý và sử dụng là N V C.
Trong sổ cấp Giấy chứng nhận QSD đất năm 2003 đang lưu giữ tại p h ườn g mang tên bà V T M.
Năm 2016, UBND phường PL nhận được đơn đề nghị của bà V T V nh ưn g hoà giải không thành.
UBND huyện TO có ý kiến tại công văn số 516/UBND-ĐC ngày 01/4/2020 (bút lục 206): Địa giới 03 xã PL,PL, huyện T O đã bàn giao về UBND quận HĐ theo điều chỉnh địa giới hành chính theo Nghị định số 107/NĐ-CP ngày 23/09/2003. Hiện nay, UBND huyện T O không còn lưu giữ hồ sơ liên quan đến yêu cầu của Toà án.
Văn phòng đăng ký đất đai HN có ý kiến tại công văn số 1855/VPĐKDĐ-TTLT ngày 02/3/2020, (bút lục 209) Thửa đất thửa đất số 288, tờ bản đồ số 5, diện tích 219 m2 thuộc địa bàn của UBND quận HĐ, hồ sơ cấp Giấy chứng nhận do Chi nhánh quận HĐ lưu giữ, quản lý.
UBND quận HĐ có ý kiến tại công văn số 146/TNMT ngày 13/03/2020 cung cấp(bút lục 217) Theo Quyết định số 566/QĐ-UB ngày 27/08/2003, UBND huyện T O đã cấp Giấy chứng nhận QSD đất số 692569 cho bà V T M (s ố t h ứ t ự 284) thửa đất số 288, tờ bản đồ số 5, diện tích 219 m2; n gu ồ n gố c d o ch a ô n g đ ể lại.
Trong sổ cấp Giấy chứng nhận QSD đất năm 2003 đang lưu giữ tạ i p h ườn g mang tên bà V T M.
Năm 2016, UBND p hường P L nhận được đơn đề nghị của bà V T V nh ưn g hoà giải không thành.
Tại bản án sơ thẩm số 53/2020/DS-ST ngày 17/08/2020 của Tòa án nhân dân quận HĐ đã xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện tranh chấp về thừa kế tài sản củ a b à V T V đối với bà V T M.
2. Xác định di sản thừa kế của cụ N V T (Tức N V C) và cụ Đ T H gồ m : 0 3 gian nhà cấp 4, tường xây gạch, khung tre gỗ, lợp ngói ri và 02 gian công trình phụ tường xây gạch, khung tre gỗ, lợp ngói S C (đều đã hết khấu hao). Tất cả nằm tr ên thửa đất số 288, tờ bản đồ số 5, diện tích 219 m 2; địa chỉ số 91, tổ 9 N T, p hường P L, quận HĐ, thành p hố HN, hiện do bà V T M đang quản lý và sử dụng.
Bà V T M được sở hữu ngôi nhà 03 gian nhà cấp 4, tường xây gạ ch , k h u n g tre gỗ, lợp ngói ri và một p hần của 02 gian công trình p hụ tường xây gạ ch , k h u n g tre gỗ, lợp ngói S C. Tất cả nằm trên diện 76,4 m2 đất, trong đó 55,7 m2 đất sử dụng riêng và 20,7 m2 đất làm ngõ đi chung.
Bà V T V được sở hữu 01 bể nước và một phần 02 gian công trình p hụ t ường xây gạch, khung tre gỗ, lợp ngói S C. Tất cả nằm trên diện tích 142,6 m2 đất, trong đó có 101,2 m2 đất sử dụng riêng và 41,4 m2 đất ngõ đi chung.
Bà V T V và bà V T M được quản lý sử dụng chung 62 m2 đất là ngõ đi chung (trên một p hần ngõ đi chung có lợp tôn, khung sắt).
Tất cả p hần diện tích nhà đất của bà V, bà M được chia (kể cả ngõ đi chung) đều nằm trên thửa đất số 288, tờ bản đồ số 5, diện tích 219 m2; địa chỉ: Số 91, t ổ 9 N T, p hường P L, quận HĐ, thành p hố HN. Đã được cấp giấy ch ứn g n h ậ n q u y ền sử dụng đất đứng tên bà V T M (có sơ đồ kích thước kèm theo).
Kiến nghị UBND quận HĐ, thành p hố HN thu hồi giấy chứn g n h ậ n q u y ền sử đất số 602 569 do UBND huyện T O, tỉnh H T cấp ngày 27/8/2003 đứng tên b à V T M.
Bà V T V, bà V T M có trách nhiệm liên hệ, làm việc với cơ quan nhà n ước có thẩm quyền, để hoàn thiện các thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền s ử d ụ n g đ ấ t theo quy định của p háp luật.
Bà V T V p hải thanh toán trả bà V T M số tiền là 9.029.000 đồng.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án p hí, quyền kháng cáo.
Sau phiên toà sơ thẩm, Ngày 01/09/2020, Toà án nhân dân quậ n HĐ n h ận đ ơn k h áng cá o đ ề n gà y 01/09/2020 của bà V T M; p hạm vi kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Trong quá trình giải quyết vụ án ở cấp phúc thẩm, bà V T M n ộ p " G iấy gia o quyền thừa kế ngày 05/12/1996", là bản chữ viết phô tô; t ại t rang 2 có ch ữ k ý m ực xanh ghi "N V C", tại trang số 3 có xác nhận của UBND xã P L ngày 09/12/1996.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Nguyên đơn - bà V T V trình bày: Bà V vẫn giữ nguyên các ý k iến đ ã t r ìn h bầy, bà không xuất trình chứng cứ gì thêm, không có yêu cầu mời người làm chứng. Bà đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bị đơn - bà V T M trình bày: Bà kháng cáo toàn bộ bản án sơ t h ẩ m . B à x á c định toàn bộ nhà đất là do bố mẹ bà tạo dựng. Cụ H chết, không để lại di chúc. "Giấy giao quyền thừa kế ngày 05/12/1996" là do bà viết và phô tô; C ụ T (C ) ký t ạ i trang 2, chữ ký và chữ viết là của Cụ T (C). Mấy hôm sau, Cụ T (C) giục bà m a n g r a xã, UBND xã P L đã xác nhận ngày 09/12/1996. Bà không có bả n gố c m ẫ u ch ữ k ý nào khác của Cụ T (C) để so sánh với mẫu chữ ký này; bà không có y êu cầ u giá m định văn bản này. Sau khi bố mẹ bà chết, bà không thông báo cho b à V , ch ồ ng co n bà H việc Cụ T (C) trao tặng cho bà toàn bộ nhà; không tổ chức họp gia đình v ề v iệc p hân chia nhà đất. Việc cấp Giấy chứng nhận do UBND xã tiến hành trong cả năm và đã cấp Giấy chứng nhận QSD đất cho bà. Bà không đồng ý như bản án sơ thẩm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - ông N Đ B, anh N Đ H, ch ị Đ T H trình bày: Ông B, anh H, chị H vẫn giữ nguyên ý kiến và quan điểm trong quá trình giải quyết ở cấp sơ thẩm. Toàn bộ nhà đất là củ a cụ H , C ụ T (C ) t ạ o d ựn g. Trong gia đình từ trước đến nay chưa từng được thông báo có d i ch ú c củ a h a i cụ để lại; sau khi hai cụ chết, trong gia đình cũng chưa hề có việc p hân ch ia n h à đ ấ t . Ông B, anh H, chị H vẫn giữ quan điểm nhường toàn bộ kỷ phần bà H được hưởng cho bà V vì hoàn cảnh bà V rất khó khăn.
Các đương sự không thỏa thuận được về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố HN tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Hội đồng xét xử và các đương sự tuân thủ đầy đủ các quy định củ a Bộ luật tố tụng dân sự từ giai đoạn thụ lý vụ án đến phiên toà xét xử vụ án.
Về nội dung: Sau khi p hân tích các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình diễn biến tại p hiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành p hố HN đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 308 Bộ luật dân sự; sửa bản án sơ thẩm cụ th ể: Chia di sản thừa kế của cụ NVT, cụ ĐTH theo pháp luậ t ; xác định " Giấy giao quyền thừa kế ngày 05/12/1996" không có giá trị; sửa lại cách tuyên về việc kiến nghị thu hồi Giấy chứng nhận QSD đất mang tên bà V T M.
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về tố tụng:
[1.1]. Về quyền khởi kiện; thẩm quyền giải quyết: Theo đơn khởi kiện của bà V T V đề nghị: Chia thừa kế nhà đất tại thửa đất số 288, tờ bản đồ số 05, diện t ích 219 m2; tại địa chỉ số nhà 91, tổ 9 N T, p hường P L, quận HĐ, thành p h ố HN củ a cụ N V T (tức N V C) và cụ Đ T H để lại theo quy định của p h á p lu ậ t , k iến n gh ị thu hồi Giấy chứng nhận QSD đất mang tên bà V T M.
Theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đối tượng tran h ch ấ p là b ấ t đ ộ n g sản và bị đơn cùng có địa chỉ p hường P L, quận HĐ, thành p hố HN . Do v ậ y , T o à án nhân dân quận HĐ, thành p hố HN đã thụ lý giả i q u y ết là đ ú n g q u y đ ịn h củ a p háp luật về thẩm quyền giải quyết vụ án và loại việc được q u i đ ịn h t ạ i k h o ả n 1 Điều 35; điểm a, c khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[1.2]. Về quan hệ pháp luật: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thu ộ c q u a n hệ p háp luật là “Tranh chấp về thừa kế tài sản” theo quy định tại khoản 5 Điều 2 6 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[1.3]. Về kháng cáo: Tại p hiên toà sơ thẩm ngày 17/08/2020, có mặt b à V T M; ngày 01/09/2020, bà V T M có đơn k h á n g k h á ng cá o n ộp ch o T o à á n cấp s ơ thẩm. Về p hạm vi kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm; bà V T M nộp tạm ứng án p hí p húc thẩm trong hạn luật định.
Kháng cáo của bà V T M đảm bảo về chủ thể, hình thức, n ộ i d u ng v à t r ong thời hạn kháng cáo theo quy định tại Điều 271, Điều 272, Điều 27 3 củ a B ộ lu ậ t t ố tụng dân sự năm 2015.
[1.4]. Về chứng cứ: Tại Biên bản p hiên họp về kiểm tra việc gia o n ộ p , t iếp cận, công khai chứng cứ, Toà sơ thẩm đã công bố các tài liệu, ch ứn g cứ có t r o n g hồ sơ vụ án do các đương sự nộp và do Toà án th u t h ập . C á c đ ươn g s ự đ ã đ ược tiếp cận toàn bộ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ do hai bên đương sự cung cấp v à Toà án thu thập. Ngoài tài liệu chứng cứ xuất trình tại p hiên họp về k iểm t r a v iệc giao nộp , tiếp cận, công khai chứng cứ thì các đương sự xác n h ậ n đ ã n ộ p đ ầ y đ ủ các tài liệu, chứng cứ, không yêu cầu Toà án triệu tập đương s ự k h á c, n gười là m chứng và người tham gia tố tụng khác.
Tại cấp sơ thẩm, các đương sự trong vụ án không p h ản đ ố i v ề cá c t à i liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Do vậy, những tài liệu khác có trong hồ sơ v ụ á n m à T o à á n s ử d ụ n g là m căn cứ giải quyết đủ điều kiện là chứng cứ theo Điều 92, Điều 93 B ộ lu ậ t t ố t ụ n g dân sự năm 2015.
[1.5] Về sự vắng mặt của các đương sự tại phiên toà phúc thẩm : Các đ ươn g sự đều đã được tống đạt hợp lệ đến tham gia p hiên toà lần th ứ h a i. T ạ i p h iên t o à p húc thẩm, có mặt bà V T V, bà V T M, ông M Đ Đ, ông N Đ B , a n h N Đ H , ch ị Đ T H. Vắng mặt chị Đ T H và UBND quận HĐ, đều đã có đ ơn x in x ét x ử v ắ n g mặt. Do vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Đ T H và UBND quận HĐ theo khoản 2 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[2]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc chia thừa kế nhà đất tại thửa đất số 288, tờ bản đồ số 05, diện tích 219 m2; địa chỉ số nhà 91 , tổ 9 NT, phường PL, quận HĐ, thành phố HN của cụ NVT (tức NVC) và cụ ĐTH để lại theo quy định của pháp luật:
[2.1]. Về quan hệ huyết thống, hàng thừa kế, thời điểm mở thừa kế, thời hiệu: Các đương sự trong vụ án đều thừa nhận : Cụ NVT (tức NVC) và cụ ĐTH có quan hệ vợ chồng; hai cụ có 03 người con gồm:
1/ Bà VTH, sinh năm 1956;
2/ Bà VTV, sinh năm 1958;
3/ Bà VTM, sinh năm 1961. Ngoài 03 người con nêu trên, cụ T, cụ H không có người con nào khác.
Cụ H chết ngày 04/10/2000 (bút lục 133), không để lại di chúc; Cụ T (C) chết ngày 16/07/2003 (bút lục 132). Bố mẹ của Cụ T (C), cụ H đ ều đ ã ch ết t r ước khi Cụ T (C), cụ H chết.
Bà V T H chết năm 1993 có chồng là N Đ B. Bà H, ông B sinh được ba người con là NĐH, ĐTH, ĐTN được hưởng thừa kế di sản của cụ H, C ụ T (C ) để lại cho bà H.
Vì vậy, cần xác định thời điểm cụ H chết năm 2000, Cụ T (C) chết năm 2003 để thống nhất p hân chia toàn bộ di sản của cụ H, Cụ T (C ) đ ể lạ i ch o h à n g thừa kế thứ nhất của hai cụ gồm chồng con của bà H, bà V, bà M.
Theo quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì thời hiệu để n gười thừa kế yêu cầu chia di sản thừa kế là 30 năm. Như vậy, bà V nộp đơn khởi kiện là đúng thời hiệu khởi kiện theo quy định của p háp luật. Trong quá t r ình giả i q u y ết vụ án, các đương sự không có yêu cầu xem xét về thời hiệu khởi kiện nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề giải quyết.
[2.2] Về di sản thừa kế: Các đương sự đều thừa nhận: T h ửa đ ấ t s ố 2 8 8 , t ờ bản đồ số 05, diện tích 219 m2 do Cụ T (C), cụ H tạo lập nên. Ủy ban nhân dân phường PL, quận HĐ, thành p hố HN, cung cấp : Theo bản đồ, sổ mục kê năm 1997, thửa đất số 288, tờ bản đồ số 5, diện tích 219 m 2 đứng tên chủ quản lý v à s ử dụng là cụ N V T (tức C). Hội đồng xét xử nhận thấy có đủ cơ sở khẳng định, nguồn gốc thửa đất số 288, tờ bản đồ số 5, diện tích 219 m 2; địa ch ỉ s ố 9 1 , t ổ 9 N T, p hường P L, quận HĐ, thành p hố HN là của cụ N V T (tức C ) v à cụ Đ T H đ ể lại.
Tại biên bản định giá tài sản ngà y 27/9/2019 thể hiện, trên thửa đất số 288, t ờ bản đồ số 5 có 03 gian nhà xây thấp (khung gỗ lợp ngói ) và 02 gian bếp (công trình p hụ xây thấp khung tre gỗ lợp ngói S C); nhà, bếp đã xu ố ng cấ p k h ô ng cò n giá trị sử dụng. Bà V T V, bà V T M thừa nhận 03 gian nhà v à 0 2 gia n b ếp , s â n , vườn do Cụ T (C), cụ H xây dựng từ lâu không nhớ năm nào. Hội đồng xét xử nhận thấy có đủ cơ sở khẳng định 03 gian nhà và 02 gian bếp , sân, vườn n ằ m t r ên thửa đất diện tích 219 m2 tại địa chỉ số 91, tổ 9 N T, p hường P L, quận HĐ , t h à nh p hố HN là di sản của cụ N V T (tức C), cụ Đ T H để lại.
Thời điểm Cụ T (C), cụ H còn sống thì thửa đất này chưa đ ược cơ q u a n có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
[2.3] Xét “Giấy giao quyền thừa kế nhà cửa đất cát ngày 06/12/1996 ”: Cá c đương sự đều xác nhận, cụ H chết không để lại di chúc về việc p hân chia, định đoạt tài sản.
Tại cấp sơ thẩm, bà V T M lại khai rằng nhà đất trên do bố mẹ bà đã ch o b à (có di chúc) nên bà đã kê khai và được cấp Giấy chứng nhận q u y ền s ử dụng đ ấ t . Tòa án nhân dân quận HĐ ra thông báo, yêu cầu bà M cung cấp bản di chúc, h o ặ c giấy tờ tặng cho (nếu có) và cung cấp bản chính giấy giao quyền t h ừa k ế n h à cửa đất cát ngày 06/12/1996 của cụ N V T và cụ Đ T H cho bà. Tuy nhiên, bà M không cung cấp . Bà V T V cung cấp cho tòa bản p hô tô Giấy gia o q u y ền t h ừa k ế nhà cửa đất cát ngày 06/12/1996. Bà V khai bà chỉ có b ả n p h ô t ô , k h ô ng có b ả n chính và cho rằng giấy tờ này là giấy tờ giả; bà V không thừa nhận giá t r ị p h áp lý của văn bản này.
Tại cấp phúc thẩm, bà V T M nộp "Giấy giao quyền thừa kế ngày 05/12/1996", là bản chữ viết p hô tô; tại trang 2 có chữ ký mực xanh ghi "N V C", tại trang s ố 3 có xác nhận của UBND xã P L ngày 09/12/1996.
Hội đồng xét xử nhận thấy, "Giấy giao quyền thừa kế ngày 06/12/1996" do bà M viết và p hô tô; chỉ có chữ ký ghi là "N V T ” dưới dòng "ngày 06/12/1996" ; không có dấu vân tay điểm chỉ của cụ T; xác nhận của UBND xã P L là ngày 09/12/1996, không cùng ngày lập văn b ản, n ội d u ng x ác n h ận củ a U BN D x ã P L không xác nhận đây là chữ ký, ý chí của cụ N V T (tức C) đã thể hiện ý chí trước mặ t UBND xã P L. Bà M không xuất trình được bản gốc và mẫu chữ k ý củ a cụ T n ên không có điều kiện để giám định để xác định đây có p hải ch ữ k ý , ý ch í củ a cụ T hay không. Cho dù chữ ký là chữ ký của cụ T thì cụ T cũng không ký, lập văn b ả n này trước mặt hai người làm chứng theo quy định của p háp luật.
Tại Điều 659 Bộ luật dân sự năm 1995 quy định: “Trong trường h ợp n g ười lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc, thì có thể nhờ người khác viết, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng”.
Hội đồng xét xử nhận thấy, theo quy định của quy định tại Điều 659 Bộ luật dân sự năm 1995 thì nếu người viết không tự viết, tự ký được thì có thể nhờ người khác viết lại những mong muốn của mình thể hiện trước mặt hai người làm ch ứn g sẽ mang tính xác thực, thể hiện đúng ý chí của người để lại di sản.
Do vậy, Hội đồng xét xử thấy không có căn cứ việc "Giấy giao quyền thừa kế ngày 05/12/1996" là ý chí của Cụ T (C); kể cả trong trường hợp chữ k ý t r o n g v ă n bản này là chữ ký của Cụ T (C) thì "Giấy gia o q u yền t hừa k ế n gà y 0 5 /12/1996" cũng không có giá trị p háp lý; cần xác định Cụ T (C) chết không để lại di chúc.
Như vậy, cụ H, Cụ T (C) không để lại di chúc hay bất kỳ văn bản nào thể hiện ý chí định đoạt di sản thừa kế của hai cụ. Sau khi cụ H , C ụ T (C ); cá c đ ồ n g thừa kế của cụ H, Cụ T (C) cũng không lập văn bản thoả thuậ n, p hân ch ia d i s ả n thừa kế của cụ H, cụ T để lại.
Ngày 27/8/2003, UBND huyện T O đã cấp Giấy chứng nhận QSD đất cho bà VTM đối với thửa đất nêu trên là không đúng đối tượng.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử thấ y Toà án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà V T V là có căn cứ.
[2.4]. Phân chia di sản thừa kế: Tại Biên bản định giá tài sản ngày 10/9/2019, Hội đồng định giá tài sản quyết định giá trị q uyền sử dụng đất là:
10.000.000 VNĐ/m2; giá trị tquyền sử dụng đất là 2.190.000.000 đồn g; p h ần x â y dựng trên đất của cụ T, cụ H đã hết khấu hao.
Di sản thừa kế của cụ N V T (tức C), cụ Đ T H được chia cho hà n g t h ừa k ế thứ nhất gồm 03 người là: Bà V T H, bà V T V, bà Vi Thi Mơ. Bà V T H chết trước cụ T, cụ H (tức C) nên 03 người con của Bà H là Đ T H, N Đ H và Đ T H được thừa kế thế vị p hần bà V T H được hưởng.
Như vậy, di sản của cụ N V T (tức C), cụ Đ T H được chia cho Bà H , b à V , bà M mỗi kỷ p hần được hưởng 1/3. Bà H đã chết thì các con của Bà H được hưởng p hần của Bà H. Quá trình giải quyết vụ án, chồng và các con của B à H đ ều tự nguyện cho bà V T V. Do đó bà V được 2/3 di sản.
Do bà V T M ở trên đất này và đóng thuế nhà đất trên từ n ă m 2 0 0 3 , k h i cụ N V T (tức C) chết đến nay. Nên Toà sơ thẩm tính khấu trừ t iền b à M đ ó n g t h u ế với số tiền: 17 năm x 3.000.000 đồng/năm = 51.000.000 đồng là có căn cứ.
Phân chia cụ thể như sau:
Di sản thừa kế có giá trị là: 219 m2 đất trị giá 2.190.000.000 VNĐ - 51.000.000 VNĐ = 2.139.000.000 VNĐ.
Mỗi kỷ phần thừa kế có gia trị là: 2.139.000.000 VNĐ : 3 = 713.000.000 VNĐ.
Xét nhu cầu sử dụng đất của các đương sự, hiện trạng và kích thước thửa đất; diện tích đất đủ tách thửa cho cả bà V, bà M cùng sử dụng. Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét nhu cầu sử dụng đất của các đương sự, hiện trạng v à k ích t h ước thửa đất; để p hân chia di sản cho các đồng thừa kế của cụ T (tức C), cụ H là p h ù hợp và có căn cứ.
Cần giữ nguyên cách chia như Toà án sơ thẩm, cụ thể:
Bà V T M được 713.000.000 VNĐ + 51.000.000 VNĐ = 764.000.000 VNĐ, tương đương 76, 4 m2 đất.
Bà V T V + bà V T H được 713.000.000 VNĐ x 2 = 1.4 2 6 . 00 0. 000 V N Đ , tương đương 142,6 m2 đất.
Do bà M được chia p hần bên trong không có ngõ đi, nên bớt lại 01 p hần làm ngõ đi chung cho bà V và bà M.
Bà V được hưởng cả p hần của Bà H, do các thừa kế của B à H ch o , n ên b à V p hải chịu 02 p hần ngõ đi chung, bà M p hải chịu 01 p hần ngõ đi chung.
Bà V T M được quản lý sử dụng tổng cộng 76,4 m2 đất, trong đó có 55,7 m2 đất sử dụng riêng và 20,7 m2 đất ngõ đi chung.
Bà V T V được quản lý sử dụng tổng cộng 142,6 m2 đất, trong đ ó có 1 0 1 , 2 m2 đất sử dụng riêng và 41,4 m2 đất ngõ đi chung.
Bà V và bà M được quản lý sử dụng chung 62 m2 đất là ngõ đi chung (có sơ đồ kèm theo).
01 bể nước nằm trên đất bà V được chia, nhưng do bà M xây dựng nên bà V p hải thanh toán trả bà M 3.451.000 đồng. Tại ngõ đi chung, bà M làm khung sắt lợp tôn nên bà V p hải thanh toán cho bà M 2/3 giá trị, cụ thể: 8.366.994 VNĐ : 3 x 2 = 5.578.000 VNĐ.
Như vậy, bà V p hải thanh toán trả bà M, tổng số tiền là: 3. 4 5 1 . 000 VNĐ + 5.578.000 VNĐ = 9.029.000 VNĐ.
Tuy nhiên, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Tại p hần Quyết định của bản án sơ thẩm, Toà án cấp sơ thẩm có “Kiến n gh ị UBND quận HĐ, thành p hố HN thu hồi giấy chứng nhận quyền sử đất số 602 5 6 9 do UBND huyện T O, tỉnh H T cấp ngày 27/8/2003 đứng tên bà V T M" Hội đồng xét xử nhận thấy, việc UBND huyện T O cấ p G iấ y ch ứn g n h ậ n quyền sử đất đứng tên bà V T M là không đúng đối tượng; xâm p h ạ m v à o q u yền và lợi ích hợp p háp của các đồng thừa kế của Cụ T (C), cụ H.
Trong vụ án này, bà V chỉ yêu cầu Toà án giải quyết chia di sản thừa kế củ a cụ T, cụ H để lại, kiến nghị thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đ ấ t đ ứn g t ên bà V T M .
Theo quy định tại Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015: Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện , đơn yêu cầu đó.
Theo hướng dẫn tại mục 7, p hần IV của Công văn 89/TANDTC -PC ngày 30/06/2020 của Toà án nhân dân Tối cao thì “..pháp luật chỉ quy định thẩm q u yền của Tòa án là hủy quyết định cá biệt hoặc bác yêu cầu khởi kiện của đương sự m à không quy định Tòa án có thẩm quyền đề nghị cơ quan hành chính nhà n ước đ iều chỉnh quyết định”.
Do vậy, Hội đồng xét xử thấy cần sửa p hần quyết định của b ả n á n s ơ t h ẩ m như đã p hân tích nêu trên.
[3] Xét kháng cáo của bà V T M:
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử thấy khôn g có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bà V T M về việc không chia di sản thừa kế.
[4] Về nghĩa vụ chịu án phí:
[4.1] Về án p hí sơ thẩm: Về án p hí: Bà V T V là người già và thuộc h ộ cậ n nghèo; bà V T M có hoàn cảnh khó khăn, có đơn xin miễn giảm án p hí, có xác nhận của UBND p hường nên Hội đồng xét xử thấy cần miễn án p hí cho bà V T M. [4.2] Về án p hí p húc thẩm: Do sửa án sơ thẩm, nên các đương sự không p hải chịu án p hí dân sự p húc thẩm Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân t h àn h p hố HN p h ù h ợp v ớ i Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
Căn cứ:
QUYẾT ĐỊNH
- Điều 659 Bộ luật dân sự năm 1995;
- Điều 623 Bộ luật dân sự năm 2015;
- Điều 2 Luật Người cao tuổi năm 2009 ;
- Điều 5; khoản 5 Điều 26; khoản 1 Điều 35; điểm a, c khoản 1 Điều 39; Điều 92, Điều 93, Điều 271, Điều 272, Điều 273, khoản 2 Điều 296; khoản 2 Điều 308; Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ;
-Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của UBTVQH Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử d ụ n g á n p h í và lệ p hí Tòa án;
- Công văn 89/TANDTC-PC ngày 30/06/2020 của Toà án nhân dân Tối cao .
Xử: Chấp nhận một p hần kháng cáo của bà V T M về án p hí; sửa quyết định củ a Bản án sơ thẩm số 53/2020/DS-ST ngày 17/08/2020 của Tòa án nhân dân quận HĐ, thành p hố HN, cụ thể như sau:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện tranh chấp về thừa kế tài sản củ a b à V T V đối với bà V T M.
2. Xác định di sản thừa kế của cụ N V T (tức N V C) và cụ Đ T H gồ m : 0 3 gian nhà cấp 4, tường xây gạch, khung tre gỗ, lợp ngói ri và 02 gian công trình phụ tường xây gạch, khung tre gỗ, lợp ngói S C (đều đã hết khấu h a o ) n ằ m t r ên t h ửa đất số 288, tờ bản đồ số 5, diện tích 219 m2; quận HĐ, thành p hố HN, hiện do bà V T M đang quản lý và sử dụng.
Bà V T M được sở hữu ngôi nhà 03 gian nhà cấp 4, tường xây gạch, khung tre gỗ, lợp ngói ri và một p hần của 02 gian công trình p hụ tường xây gạch , khung tre gỗ, lợp ngói S C nằm trên diện 76,4 m2 đất, trong đó 55,7 m2 đất sử d ụ n g r iên g và 20,7 m2 đất làm ngõ đi chung.
Bà V T V được sở hữu 01 bể nước và một p hần 02 gian công trình p hụ tường xây gạch, khung tre gỗ, lợp ngói S C nằm trên diện tích 142,6 m2 đấ t , t r o ng đó có 101,2 m2 đất sử dụng riêng và 41,4 m2 đất ngõ đi chung.
Bà V T V và bà V T M được quản lý sử dụng chung 62 m2 là n gõ đ i ch u n g (trên một p hần ngõ đi chung có lợp tôn, khung sắt).
Tất cả p hần diện tích nhà đất của bà V, bà M được chia (kể cả ngõ đi chung) đều nằm trên thửa đất số 288, tờ bản đồ số 5, diện tích 219 m2; địa ch ỉ s ố 9 1 , t ổ 9 N T, p hường P L, quận HĐ, thành p hố HN (có sơ đồ kích thước kèm theo).
Bà V T V p hải thanh toán trả bà V T M số tiền là 9.029.000 VNĐ (chín triệu, không trăm hai mươi chín nghìn đồng).
Bà V T V, bà V T M được quyền đến cơ quan Nhà nước có t h ẩ m q u y ền đ ể đăng ký biến động, hoàn thiện các thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụn g đ ấ t theo diện tích được chia tại bản án có hiệu lực.
Khi án có hiệu lực p háp luật, kể từ ngày bà V T M có đơn yêu cầu t h i h à n h án, bà V T V hàng tháng còn p hải chịu một khoản tiền lãi của số t i ền ch ưa t h a n h toán theo mức lãi suất được quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự.
4. Về án p hí: Bà V T V, bà V T M không p hải p hải chịu án p hí dân sự. Hoàn trả cho bà V T M số tiền 300.000 VNĐ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai tạm ứng án p hí số AA/2018/0009423 ngày 01/09/2020 của Chi cụ c t h i h à n h á n q u ậ n HĐ.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Đ iều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người p hải t h i h à n h á n d â n s ự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầ u thi hành án, tự nguyện thi hành á n hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 v à 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án đ ược thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án p húc thẩm có hiệu lực Pháp luậ t kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp thừa kế tài sản số 143/2021/DS-PT
Số hiệu: | 143/2021/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 16/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về