Bản án về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất số 30/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 30/2023/DS-ST NGÀY 08/08/2023 VỀ TRANH CHẤP THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong ngày 08 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh P xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 11/2020/TLST-DS ngày 25 tháng 02 năm 2020 về việc “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất; Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2023/QĐXXST-DS ngày 12 tháng 7 năm 2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 54/2023/QĐ-ST ngày 21 tháng 7 năm 2023; giữa các đương sự:

- Nguyên đơn:

1. Bà Lê Thị N, sinh năm 1940; Nơi cư trú: Thôn H, xã H, thị xã Đ, tỉnh P; Bà N chết ngày 27/4/2022 có chồng tên Trần Công V (chết 23/10/2007); Những người kế thừa quyền, nghĩa vụ của bà N gồm:

1.1. Bà Trần Thị H, sinh năm 1972; Nơi cư trú: Thôn H, xã H, thị xã Đ, tỉnh P;

1.2. Bà Trần Thị L, sinh năm 1977; Nơi cư trú: Thôn H, xã H, thị xã Đ, tỉnh P;

1.3. Bà Trần Thị Mỹ H1, sinh năm 1981; Nơi cư trú: Thôn H, xã H, thị xã Đ, tỉnh P;

1.4. Bà Trần Thị Mỹ Y, sinh năm 1987; Nơi cư trú: Thôn C, xã A, thành phố T, tỉnh P;

2. Bà Lê Thị N1, sinh năm 1942; Nơi cư trú: khu phố N, phường H, thị xã Đ, tỉnh P;

3. Bà Lê Thị N2, sinh năm 1948; Nơi cư trú: Khu phố U, phường H, thị xã Đ, tỉnh P;

4. Ông Lê Thanh H2, sinh năm 1955; Nơi cư trú: Khu phố U, phường H, thị xã Đ, tỉnh P; Ông H2 chết ngày 07/4/2023; Những người kế thừa quyền, nghĩa vụ của ông H2 gồm:

4.1. Bà Đặng Thị Kim K, sinh năm 1960; Nơi cư trú: Khu phố U, phường H, thị xã Đ, tỉnh P;

4.2. Bà Lê Thị Kim H3, sinh năm 1981; Nơi cư trú: Khu phố U, phường H, thị xã Đ, tỉnh P;

4.3. Ông Lê Thanh H4, sinh năm 1984; Nơi cư trú: 129/19, LK 5 - 6 B, B, thành phố Hồ Chí Minh.

4.4. Bà Lê Thị H5, sinh năm 1989; Nơi cư trú: Khu phố U, phường H, thị xã D, tỉnh P;

4.5. Bà Lê Thị H6, sinh năm 1992; Nơi cư trú: Khu phố U, phường H, thị xã Đ, tỉnh P;

5. Ông Lê Văn C, sinh năm 1957; Nơi cư trú: Khu phố U, phường H, thị xã Đ, tỉnh P;

6. Ông Lê Văn P, sinh năm 1964; Nơi cư trú: Tổ A, N, N, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa.

7. Bà Lê Thị L1, sinh năm 1968; Nơi cư trú: Khu phố Đ, phường H, thị xã Đ, tỉnh P.

Tất cả các nguyên đơn, người kế thừa quyền, nghĩa vụ của các nguyên đơn đều ủy quyền cho ông Trịnh Bình T, sinh năm 1979; Địa chỉ: G N, phường E, thành phố T, tỉnh P. Ông Trịnh Bình T, ông Lê Thanh H4 có mặt, những người khác đều vắng mặt.

- Bị đơn: Vợ chồng ông Lê Anh B, sinh năm 1972 và bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1972; Nơi cư trú: Khu phố U, phường H, thị xã Đ, tỉnh P. Ông B có mặt, bà T1 vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ủy ban nhân dân thị xã Đ, tỉnh P; Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đỗ Như T2, Phó phòng tài nguyên và môi trường thị xã Đ, tỉnh P. Có văn bản đề nghị vắng mặt.

2. Ủy ban nhân dân phường H, thị xã Đ, tỉnh P. Vắng mặt.

3. Ông Lê Văn H7, sinh năm 1951; Nơi cư trú: Khu phố U, phường H, thị xã Đ, tỉnh P. Có mặt.

4. Vợ chồng ông Trương Văn T3, sinh năm 1978, bà Nguyễn Thị Tường V1, sinh năm 1981; Nơi cư trú: Khu phố U, phường H, thị xã Đ, tỉnh P. Ông T3 vắng mặt, bà V1 có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 30/11/2019, tài liệu có tại hồ sơ và tại phiên tòa, ông Trịnh Bình T đại diện theo ủy quyền của các nguyên đơn, những người kế thừa quyền nghĩa vụ của nguyên đơn Niên, H2 trình bày:

Cha mẹ của các nguyên đơn cụ Lê Văn B1 (chết 1965), cụ Nguyễn Thị C1 (chết 2013) có 08 người con gồm: Lê Thị N, Lê Thị N1, Lê Thị N2, Lê Văn H7, Lê Thanh H2, Lê Văn C, Lê Văn P, Lê Thị L1.

Cha mẹ tạo lập tài sản gồm căn nhà cấp 4 trên diện tích đất 887m2 thuộc thửa đất số 257, tờ bản đồ số 353C tọa lạc tại khu phố U, phường H, thị xã Đ, tỉnh P. Năm 1965, cha chết, mẹ Nguyễn Thị C1 trực tiếp quản lý, sử dụng cùng các con chung sống trên nhà đất này. Các con lớn có gia đình sống nơi khác, đến năm 1992, ông C và bà L1 có gia đình riêng nhưng cùng chung sống với mẹ Cửu trên nhà đất này và trong năm 1992, 1993 thì hai gia đình cùng ra riêng chỉ còn mẹ C1 ở. Trong năm 1993, bão làm căn nhà bị xuống cấp, mẹ già nên thường xuyên qua ở với gia đình riêng của các con.

Năm 2004, mẹ C1 cho vợ chồng cháu nội là Lê Anh B, Nguyễn Thị T1 (con của ông Lê Văn H7) ở nhờ trong ngôi nhà này. Quá trình ở nhờ, vợ chồng B tự ý dỡ nhà cũ ra xây dựng nhà mới không hỏi ý kiến anh em nguyên đơn, nhưng vì mẹ và cháu nên họ vẫn để cho vợ chồng B ở tạm cùng chăm sóc mẹ C1. Năm 2013, mẹ C1 chết không để lại di chúc, lúc sống có nói miệng để lại nhà đất này cho 04 người con trai là H2, C, P, H7.

Năm 2019, khi các nguyên đơn làm thủ tục thừa kế thì biết được vợ chồng B đã được Nhà nước cấp GCNQSDĐ. Do đó, các nguyên đơn yêu cầu:

+ Xác định diện tích đất 887m2 thuộc thửa đất số 257, tờ bản đồ số 353C tọa lạc tại khu phố U, phường H, thị xã Đ, tỉnh P là di sản của cha mẹ Lê Văn B1, Nguyễn Thị C1 để lại.

+ Hủy GCNQSDĐ số H000396 do UBND huyện (nay là thị xã) Đông Hòa cấp ngày 20/11/2009 cho vợ chồng Lê Anh B, Nguyễn Thị T1.

+ Chia di sản thừa kế QSDĐ nói trên cho 08 người con của cụ B1, cụ C1 nhận bằng hiện vật.

Quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa bị đơn ông Lê Anh B trình bày:

Nguồn gốc đất tranh chấp là của bà nội cho cha ông là ông Lê Văn H7 quản lý, sử dụng, lúc đó trên đất có căn nhà cấp 4 cũ của bà nội. Năm 1994, ông kết hôn với bà T1, vợ chồng về sống cùng bà nội trên nhà đất này nên cha ông đã làm giấy tặng cho vợ chồng ông toàn bộ nhà đất nói trên. Do năm 1993, bão làm hư mái ngói, đòn tay, đòn lách của nhà bà nội ông nên năm 1994, vợ chồng ông sửa lại nhà để ở. Năm 2006, vợ chồng dỡ nhà cũ xây dựng lại nhà mới vợ chồng ông ở còn bà nội ông về ở cùng cha ông, vợ chồng ông, lúc xây nhà các cô chú đều biết nhưng không ai nói gì. Năm 2009, vợ chồng ông kê khai đăng ký QSDĐ và được Nhà nước cấp GCNQSDĐ số AO042238, số vào sổ cấp GCH: H000396 ngày 20/11/2009. Nhà đất này đã được bà nội ông cho cha ông, cha ông tặng cho lại vợ chồng ông, thủ tục cấp GCN là đúng. Tuy nhiên, sau ngày Tòa án tiến hành đo đạc đất, trong gia đình có thống nhất cắt đất ra cho các chú, đề nghị Tòa xem xét, chúng tôi tách thửa ra cho các chú và làm thủ tục chỉnh lý biến động theo quy định. Đối với các tài sản của ông có trên phần đất chia cho chú nào thì chú đấy thanh toán lại giá trị cho vợ chồng ông.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:

Quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa ông Lê Văn H7 trình bày: Nhà đất của cha mẹ ông để lại, ông là con trai lớn nên mẹ ông đã cho ông bằng miệng, thực tế ông ở cùng mẹ, khi con ông là Lê Anh B có vợ, về ở cùng bà nội nên ông cho con ông đất này, các anh chị em cũng đã thống nhất nên con ông mới dỡ nhà cũ ra xây dựng nhà mới. Ngoài ra, lúc mẹ ông còn sống đã thống nhất bán một phần đất cho ông Trương N3, các anh chị em đều cùng ký vào giấy bán, ông N3 cho lại vợ chồng con là anh T3, chị V1 cất nhà ở ổn định rồi. Nay các anh chị em kiện chia thừa kế, thì ông yêu cầu tòa xem xét cắt lại phần đất đã có nhà của chị V1, phần đất có nhà của con ông (Bằng), phần còn lại chia cho 03 người con trai: H2, P, C, bản thân ông cùng 3 anh em trai góp mỗi người 10 triệu đồng để cho lại 04 chị em gái mỗi người nhận 10 triệu và các anh em đi làm thủ tục tách thửa đất.

Quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa bà Nguyễn Thị Tường V1 trình bày: Năm 2013, vợ chồng bà được cha là ông Trương N3 cho đất cất nhà, nguồn gốc đất do cha mẹ bà mua của gia đình ông H7 và cất nhà ở ổn định từ năm 2013 đến nay. Nay các anh chị em của ông H7 tranh chấp thừa kế, bà yêu cầu Tòa công nhận cho vợ chồng bà được quyền sử dụng đất có nhà ở của vợ chồng bà, phần đất chia thừa kế của anh em nhà ông H7 tính từ phần đất của ông B về phía đường đi trong xóm.

Quá trình giải quyết vụ án, đại diện UBND thị xã Đ trình bày: thời điểm cấp GCNQSDĐ cho ông Lê Anh B căn cứ vào hồ sơ địa chính xét nguồn gốc đất do UBND xã (nay là phường) Hòa Hiệp B chuyển lên. Nay các đương sự phát sinh tranh chấp, xác định đất do ông Bầu, bà C 1 để lại chưa có thủ tục nhận thừa kế thì yêu cầu tòa xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật. Trường hợp Tòa chia thừa kế QSDĐ cho các đương sự nhận hiện vật thì cần đảm bảo về diện tích tối thiểu và mặt tiền tối thiểu khi tách thửa.

Tòa án nhân dân tỉnh P đã tiến hành hòa giải nhưng không thành.

Tại phiên tòa:

Ông Lê Thanh H4 (con của nguyên đơn Lê Thanh H2) cùng ông Trịnh Bình T (đại diện cho tất cả các nguyên đơn và người kế thừa của bà N, ông H2) thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện và cùng với ông Lê Văn H7, Lê Anh B, bà Nguyễn Thị Tường V1 thống nhất hòa giải với nhau về các nội dung yêu cầu của phía nguyên đơn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh P phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký và những người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình. Về nội dung: Tại phiên tòa, phía các nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã thống nhất các nội dung hòa giải nên đề nghị HĐXX ghi nhận sự thỏa thuận của các bên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến các bên đương sự, Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, UBND thị xã Đ, UBND phường H đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt, căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế quyền sử dụng đất, hủy GCNQSDĐ đã cấp cho vợ chồng bị đơn; Xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất; Hủy giấy chứng nhận quyên sử dụng đất ” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh P theo khoản 5, 9 Điều 26, khoản 4 Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 4 Điều 32 Luật tố tụng hành chính.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về diện, hàng thừa kế: Cụ Lê Văn B1 (chết 1965), cụ Nguyễn Thị C1 (chết 2013) sinh được 08 người con gồm Lê Thị N (chết năm 2022, có các con gồm Trần Thị H, Trần Thị L, Trần Thị Mỹ H1, Trần Thị Mỹ Y), Lê Thị N1, Lê Thị N2, Lê Thanh H2 (chết năm 2023, có vợ tên Đặng Thị Kim K, các con tên Lê Thị Kim H3, Lê Thanh H4, Lê Thị H5, Lê Thị H6), Lê Văn H7, Lê Văn C, Lê Văn P, Lê Thị L1.

[2.2] Xét nguồn gốc đất tranh chấp: Tại phiên tòa, tất cả các đương sự đều thống nhất diện tích đất 874m2 (đo thực tế theo Mảnh trích đo chỉnh lý bản đồ địa chính số 20 - 2023 do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh P đo đạc ngày 10/4/2023 là 858,9m2) thuộc thửa 257, tờ bản đồ 353C tọa lạc tại khu phố U, phường H, thị xã Đ, tỉnh P được UBND thị xã Đ cấp GCNQSD AO042238, số vào sổ cấp GCH: H000396 ngày 20/11/2009 cho vợ chồng ông Lê Anh B, bà Nguyễn Thị T1 có nguồn gốc là do cụ Lê Văn B1, cụ Nguyễn Thị C1 tạo lập. Khi cụ B1, cụ C1 chết không để lại di chúc định đoạt đối với tài sản là quyền sử dụng đất nêu trên.

[2.3] Quá trình sử dụng đất: Năm 1965, cụ B1 chết, cụ Nguyễn Thị C1 trực tiếp quản lý, sử dụng cùng các con chung sống trên nhà đất này. Các con lớn có gia đình sống nơi khác, đến năm 1992, ông C và bà L1 có gia đình riêng nhưng cùng chung sống với cụ C1 trên nhà đất này và trong năm 1992, 1993 thì hai gia đình cùng ra riêng chỉ còn cụ C1 ở. Nguyên đơn trình bày lúc sống cụ C1 có nói miệng để lại phần đất này cho 04 người con trai là H2, C, P, H7. Năm 1994, ông B kết hôn với bà T1, vợ chồng ông B về sống cùng cụ C1, ông H7 nghĩ rằng cụ C1 đã cho ông là con trai lớn toàn bộ nhà đất nên ông đã làm giấy tặng cho vợ chồng ông B toàn bộ nhà đất nói trên. Quá trình ở cùng cụ C1, vợ chồng ông B có sửa lại phần mái ngói, đòn tay, đòn lách của nhà cụ C1 do bị hư hại sau cơn bão năm 1993. Năm 2002, vợ chồng ông Lê Văn H7 chuyển nhượng một phần diện tích đất có chiều ngang 6m, chiều dài 23m trong tổng diện tích đất nói trên cho vợ chồng ông Trương N3, bà Nguyễn Thị T4 và được sự thống nhất của cụ C1 và các anh chị em của ông H7 cùng ký tên trong giấy chuyển nhượng đất. Phần đất sau khi mua, ông N3 cho vợ chồng bà V1, ông T3 cất nhà ở ổn định từ năm 2013 đến nay. Năm 2006, vợ chồng ông B dỡ nhà cũ của cụ C1 để xây dựng nhà mới. Việc tháo dỡ và xây dựng nhà ở này các anh chị em ông H7 đều biết. Năm 2009, vợ chồng ông B nghĩ rằng đất đã được bà nội Cửu cho cha H7, cha H7 viết giấy cho vợ chồng ông, vợ chồng ông là người trông coi, quản lý toàn bộ diện tích đất này từ lúc cụ C1 còn sống nên ông tiến hành kê khai đăng ký QSDĐ và được Nhà nước cấp GCNQSDĐ số AO042238, số vào sổ cấp GCH: H000396 ngày 20/11/2009. Nay các cô chú khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế quyền sử dụng đất nói trên thì bản thân ông cùng cha Lê Văn H7 thống nhất yêu cầu chia di sản thừa kế của các nguyên đơn nhưng yêu cầu được trừ lại diện tích đất 122,8m2 đã chuyển nhượng cho gia đình bà V1, diện tích còn lại chia thừa kế cho 08 anh chị em.

[3] Tại phiên tòa, nguyên đơn do ông Trịnh Bình T đại diện cùng sự có mặt của ông Lê Thanh H4 (con của ông Lê Thanh H2) đưa ra phương án hòa giải với ông Lê Văn H7, Lê Anh B. Kết quả hòa giải, căn cứ vào Mảnh trích đo chỉnh lý bản đồ địa chính số 20 -2023 do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh P đo đạc ngày 10/4/2023 (chỉnh lý lại các tọa độ điểm theo thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa), bị đơn đồng ý nhận phần đất có nhà ở do bị đơn xây sửa lại trên phần nhà cũ của bà nội sau khi trừ phần nhà đất của vợ chồng bà V1, ông T3, phần giáp với nhà ở về phía đường bê tông giao cho các nguyên đơn, cụ thể các đương sự đã thống nhất thỏa thuận nội dung:

[3.1] Công nhận quyền sử dụng đất diện tích 122,8m2 (đất HNK) trên đất có căn nhà diện tích 83,6m2 (hình thể thửa đất được giới hạn bởi tọa độ điểm từ 10-11-12-13-14-15-9-10) cho vợ chồng ông Trương Văn T3, bà Nguyễn Thị Tường V1 do ông Trương N4 nhận chuyển nhượng từ ông H7 (cụ C1 và các anh chị em của ông H7 thống nhất), sau đó ông N3 cho vợ chồng bà V1 cất nhà ở ổn định từ năm 2013 đến nay.

[3.2] Phần diện tích đất còn lại 736,1m2 các đương sự thống nhất phân chia cho các đồng thừa kế của cụ B1, cụ C1, cụ thể như sau:

- Ông Lê Văn H7 được nhận thừa kế phần đất có diện tích 249,7m2 (200m2 đất ở, 49,7m2 đất HNK) trên đất có căn nhà có diện tích 106,5m2 (hình thể thửa đất được giới hạn bởi tọa độ điểm từ 8-9-28-29-15-16-17-18-18a-30-6-7-8).Ông H7 tự nguyện cho vợ chồng con trai là ông Lê Anh B, bà Nguyễn Thị T1 phần diện tích đất của ông và vợ chồng ông B, bà T1 đã xây dựng nhà ở, sử dụng liên tục từ năm 1994 đến nay nên giao phần diện tích đất này cho ông B, bà T1. Các đương sự thống nhất trên phần đất này đã có nhà ở của vợ chồng ông B, bà T1 nên giao toàn bộ đất ở 200m2 cho vợ chồng ông B, bà T1. Ông B tự nguyện thanh toán lại cho 07 đồng thừa kế (Niên, N1, N4, H2, C, P, L1) số tiền 100.000.000d (thời gian thanh toán đến ngày 08/01/2024).

- Các ông bà Lê Thị N (con Trần Thị H, Trần Thị L, Trần Thị Mỹ H1, Trần Thị Mỹ Y), Lê Thị N1, Lê Thị N2, Lê Thanh H2 (vợ Đặng Thị Kim K, các con Lê Thị Kim H3, Lê Thanh H4, Lê Thị H5, Lê Thị H6), Lê Văn C, Lê Văn P, Lê Thị L1 được nhận thừa kế phần diện tích đất 486,4m2 loại đất HNK (hình thể thửa đất giới hạn bởi các tọa độ điểm 6-30-18a-19-20-21-22-23-24-25-26-1-2-3- 4-5-6). Đối với các tài sản của vợ chồng ông B, bà T1 trên đất gồm 01 trại gà (diện tích 163,2m2), 01 trại gà (diện tích 88,1m2), 01 nhà bếp diện tích 34,7m2, 02 bức tường (lưới B40 + chân tường): đến ngày 08/01/2024, vợ chồng ông B sẽ tự tháo dỡ giao đất cho 07 người thừa kế nói trên.

[3.3] Đối với Giấy chứng nhận QSD đất số AO042238, số vào sổ cấp GCH: H000396 do UBND huyện (nay là thị xã) Đông Hoà cấp ngày 20/11/2009 cho vợ chồng ông Lê Anh B và bà Nguyễn Thị T1, các đương sự có trách nhiệm liên hệ với các cơ quan chức năng đăng ký chỉnh lý biến động quyền sử dụng đất theo các nội dung thỏa thuận nêu trên.

[3.5] Xét nội dung thỏa thuận của các đương sự như trên là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội, căn cứ đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, HĐXX ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

[4] Về chi phí đo đạc, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản: Các nguyên đơn tự nguyện chịu số tiền 15.000.000đ (đã nộp đủ).

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Các đương sự phải chịu tương ứng với giá trị tài sản được nhận thừa kế: Ông B nhận di sản có giá trị = 200m2 đất ở x 700.000đ/m2 = 140.000.000đ, 49,7m2 đất HNK = 3.976.000đ, tổng cộng là 143.976.000đ x 5% = 7.198.000đ án phí DSST; 07 đồng thừa kế nhận di sản có giá trị 486,4m2 đất HNK x 80.000đ/m2 = 38.912.000đ x 5% = 1.945.000đ (mỗi người chịu 300.000đ) án phí DSST; riêng vợ chồng ông T3, bà V1 không phải chịu án phí DSST.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ Điều 26, Điều 35, Điều 37, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 32 Luật tố tụng hành chính.

Áp dụng các Điều 95; Điều 100; Điều 169, Điều 170 Luật đất đai 2013; Điều 609, Điều 610, Điều 611, Điều 612 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 26, 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH khóa 14 về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa về những nội dung cụ thể như sau: Xác định diện tích đất 874m2 (đo thực tế theo Mảnh trích đo chỉnh lý bản đồ địa chính số 20 -2023 do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh P đo đạc ngày 10/4/2023 là 858,9m2) thuộc thửa 257, tờ bản đồ 353C tọa lạc tại khu phố U, phường H, thị xã Đ, tỉnh P được UBND thị xã Đ cấp GCNQSD AO042238, số vào sổ cấp GCH: H000396 ngày 20/11/2009 cho vợ chồng ông Lê Anh B, bà Nguyễn Thị T1 là di sản thừa kế của cụ Lê Văn B1, cụ Nguyễn Thị C1. Trong đó, thỏa thuận phân chia (kèm Mảnh trích đo chỉnh lý bản đồ địa chính số 20 -2023 do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh P đo đạc ngày 10/4/2023, chỉnh lý lại các tọa độ điểm theo thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa):

1. Công nhận quyền sử dụng đất diện tích 122,8m2 (đất HNK) (hình thể thửa đất được giới hạn bởi tọa độ điểm từ 10-11-12-13-14-15-9-10) cho vợ chồng ông Trương Văn T3, bà Nguyễn Thị Tường V1 do nhận chuyển nhượng, trên đất có nhà ở diện tích 83,6m2 của vợ chồng ông T3, bà V1.

2. Vợ chồng ông Lê Anh B, bà Nguyễn Thị T1 được nhận phần thừa kế của ông Lê Văn H7 đối với phần đất có diện tích 249,7m2 (200m2 đất ở, 49,7m2 đất HNK) (hình thể thửa đất được giới hạn bởi tọa độ điểm từ 8-9-28-29-15-16-17- 18-18a-30-6-7-8), trên đất có ngôi nhà có diện tích 106,5m2 của vợ chồng ông B, bà T1. Ông B tự nguyện thanh toán lại cho 07 đồng thừa kế (Niên, N1, N2, H2, C, P, L1) số tiền 100.000.000d (Một trăm triệu đồng) (thời gian thanh toán đến ngày 08/01/2024).

3. Các ông bà Lê Thị N (con Trần Thị H, Trần Thị L, Trần Thị Mỹ H1, Trần Thị Mỹ Y), Lê Thị N1, Lê Thị N2, Lê Thanh H2 (vợ Đặng Thị Kim K, các con Lê Thị Kim H3, Lê Thanh H4, Lê Thị H5, Lê Thị H6), Lê Văn C, Lê Văn P, Lê Thị L1 được nhận thừa kế phần diện tích đất 486,4m2 loại đất HNK (hình thể thửa đất giới hạn bởi các tọa độ điểm 6-30-18a-19-20-21-22-23-24-25-26-1-2-3- 4-5-6). Đến ngày 08/01/2024, vợ chồng ông B sẽ tự tháo dỡ 01 trại gà (diện tích 163,2m2), 01 trại gà (diện tích 88,1m2), 01 nhà bếp diện tích 34,7m2, 02 bức tường (lưới B40 + chân tường) giao đất cho 07 người thừa kế nói trên. Và các nguyên đơn được nhận số tiền 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng) do vợ chồng ông Lê Anh B, bà Nguyễn Thị T1 thanh toán.

4. Đối với Giấy chứng nhận QSD đất số AO042238, số vào sổ cấp GCH: H000396 do UBND huyện (nay là thị xã) Đông Hoà cấp ngày 20/11/2009 cho vợ chồng ông Lê Anh B và bà Nguyễn Thị T1, các đương sự có trách nhiệm liên hệ với các cơ quan chức năng đăng ký chỉnh lý biến động quyền sử dụng đất theo các nội dung thỏa thuận nêu trên.

5. Về chi phí đo đạc, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản: Các nguyên đơn tự nguyện chịu số tiền 15.000.000đ (đã nộp đủ).

6. Về án phí dân sự sơ thẩm: Vợ chồng ông Lê Anh B, bà Nguyễn Thị T1 phải chịu 7.198.000đ (Bảy triệu một trăm chín mươi tám nghìn đồng) án phí DSST. Các nguyên đơn Lê Thị N (con Trần Thị H, Trần Thị L, Trần Thị Mỹ H1, Trần Thị Mỹ Y), Lê Thị N1, Lê Thị N2, Lê Thanh H2 (vợ Đặng Thị Kim K, các con Lê Thị Kim H3, Lê Thanh H4, Lê Thị H5, Lê Thị H6), Lê Văn C, Lê Văn P, Lê Thị L1 mỗi người phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí DSST nhưng đã nộp tạm ứng án phí tại các biên lai thu tiền số 0000334, 0000335, 0000336, 0000337, 0000338, 0000339, 000040 ngày 25/12/2020 tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh P nên đã nộp đủ.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể ngày nhận được bản án hoặc từ ngày Tòa án niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

4
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất số 30/2023/DS-ST

Số hiệu:30/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Yên
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 08/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về