Bản án về tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất số 315/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 315/2022/DS-PT NGÀY 23/07/2022 VỀ TRANH CHẤP RANH GIỚI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Vào các ngày 05 và 23 tháng 7 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 47/2022/TLPT-DS ngày 16 tháng 02 năm 2022 về việc “Tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 94/2021/DS-ST ngày 29 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện LV bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 119/2022/QĐ-PT ngày 05 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Thị B, sinh năm 1951.

Địa chỉ: ấp A, xã MB, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1962.

Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Ngô Thị D, sinh năm 1964.

Địa chỉ: ấp A, xã MB, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp.

Người kháng cáo: bà Lê Thị B .

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn bà Lê Thị B trình bày:

Nguồn gốc phần đất tranh chấp này là của ông Võ Văn c (là anh một của ông nội chồng bà B) sử dụng từ thời kháng chiến chống pháp. Ông C không có con mới kêu vợ chồng bà B về ở chung để tiện việc thờ cúng; vợ chồng bà B về ở chung với ông c vào năm 1971. Đến năm 1991 được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Võ Văn M là chồng của bà B diện tích là 679m2, thửa 302, tờ bản đồ số 05. Vợ chồng bà B sử dụng đất liên tục tới năm 1998, ông H mới mang thi thể một đứa cháu bị chết đuối nước sang phần đất của bà B để chôn cất; kể từ năm 1998 thỉnh thoảng ông H có đến phần đất của bà B chặt phá những cây của bà B trồng và chửi bới, do vậy bà B không có sử dụng đất được. Đến năm 2019 bà B có trình báo với chính quyền địa phương được Ủy ban nhân dân xã MB hòa giải nhưng không thành.

Thực tế trên đất có 03 ngôi mộ, ngôi mộ thứ nhất là của bà cố của thầy giáo T, chôn trước năm 1971, bà B về ở năm 1971 nên bà B không biết, không có bà còn dòng họ gì với bà B hết; ngôi mộ thứ hai là của ai thì bà B không biết, chôn trước năm 1971, nhưng thấy bà S là mẹ vợ của ông hai Tr đến làm cỏ và tảo mộ; ngôi mộ thứ 3 là của mẹ chồng của chị bà con bà B, chôn sau khi giải phóng lúc này bà B đã về ở trên phần đất tranh chấp. Đối với phần mộ bà Ba yêu cầu ông Hiền di dời là mộ một đứa cháu bị chết đuối của ông H ra khỏi phần đất tranh chấp, tuy nhiên hiện nay ngôi mộ này nằm trong phần đất tranh chấp nhưng không thể hiện được, lý do đã bơm cát san lắp. Nay bà B rút lại yêu cầu về việc yêu cầu ông H di dời ngôi mộ trẻ nhỏ ra khỏi phần đất tranh chấp.

Bà B yêu cầu giải quyết buộc ông H chấm dứt hành vi xâm chiếm, chặt phá cây trồng trên diện tích theo đo đạc thực tế là 240,5m2; giữ nguyên hiện trang 03 ngôi mộ đá; bồi thường thiệt hại về tài sản cây trồng do ông H chặt là 3.000.000 đồng. Trả lại cho bà B diện tích 240,5m2 thửa đất số 302, tờ bản đồ số 05 và bồi thường thiệt hại do không trồng trọt trên đất ước tính mỗi năm 500.000 đồng, tính từ năm 1998 đến nay là 21 năm = 10.500.000 đồng. Căn cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện đòi đất của bà ba là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp cho bà B. Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản thì không có chứng cứ gì chứng minh.

Bà B không đồng ý với lời xác nhận về quá trình sử dụng đất tranh chấp của những người làm chứng mà bên ông H xuất trình vì những người làm chứng này có cho bà B biết là chỉ xác nhận ông H có sử dụng hai công đất nông nghiệp, hiện nay đã lên vườn giáp với phần đất tranh chấp giữa bà B với ông H.

- Bị đơn ông Nguyễn Văn H trình bày:

Nguồn gốc đất tranh chấp là của ông nội ông H tên Nguyễn Văn H để lại cho cha ông H là ông Nguyễn Văn Q. Đến khoảng năm 1980 thì ông Q mới để phần đất này cho ông H sử dụng. Đến khoảng năm 1987 thì ông H đứng tên quyền sử dụng đất nội dung trong giấy chứng nhận ông không nhớ vì đã làm mất giấy. Phần đất của ông H sử dụng là gò cao ông H mới kêu ông Cao Văn B, Nguyễn Văn S, Nguyễn Văn L, Đặng Văn Ph san lắp phần đất cho bằng phẳng trồng trọt. Năm 2016 thì cho ông Ph mướn để làm rẫy; đến năm 2020 ông H mới lấy lại phần đất để lên liếp trồng dừa, chanh, cà na. Trong khi trồng trọt thì bà B ra ngăn cản, ông H có làm đơn gởi đến Ủy ban nhân dân xã MB nhưng không giải quyết.

Sau khi Tòa án mời hòa giải thì ông H có làm đơn khởi kiện tranh chấp với bà B phần đất từ hàng rào ông H làm trở vô giáp với nhà sau của bà B (Tòa án chưa thụ lý). Nay ông H xác định là ông H không tranh chấp phần này nữa.

Ông H không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của bà B, vì phần đất tranh chấp có mộ của ông, bà ông H và ông H sử dụng liên tục từ trước đến nay có những người giáp ranh biết. Ông H xác định ranh đất giữa ông H thửa 411b và đất của bà B thửa số 302 là hàng rào lưới B40 do ông H rào có hai trụ đá từ mốc 12 đo qua mốc 3.

Đối với phần đất phía sau nhà của bà B từ mốc 2 ra đến mốc 3, phần đất này lúc ông M (chồng bà B) còn sống thì ông Q (là cha ông H) có tranh chấp với ông M, lý do ông M sử dụng lấn chiếm phần đất này. Sự việc có đến chính quyền giải quyết, ông Q đòi ông Minh trả thành quả lao động giá 500.000 đồng, nhưng ông M chỉ đồng ý trả 200.000 đồng, việc này có địa chính xã xác nhận. Phần đất mà ông Q tranh chấp với ông M là từ nhà sau của ông M và bà B đo ra đến mốc 3 và mốc 12.

Sau khi tìm được giấy chứng nhận; ông H xác định phần đất giáp với bà B, ông H được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 1991, thửa 411b, diện tích là 2.000m2, mục đích sử dụng là đất màu.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Ngô Thị D trình bày: Bà D thống nhất với lời trình bày của ông H.

Bn án dân sự sơ thẩm s 94/2021/DS-ST ngày 29 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện L V quyết định:

Căn cứ Điều 166, 179 Luật đất đai; Điều 175; Điều 585, 589 Bộ luật dân sự;

Điều 244; khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 157 Bộ luật tố tụng dân sự;

Điều 2 Luật người cao tuổi năm 2009;

Điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của bà Lê Thị B về việc yêu cầu ông Nguyễn Văn H di dời ngôi mộ trẻ nhỏ ra khởi phần đất tranh chấp.

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị B.

Xác định ranh đất giữa bà Lê Thị B thửa 302 và đất của ông Nguyễn Văn H thửa 411b là hàng rào lưới B40 do ông H làm từ Mốc 13 đo qua 4.

(Kèm theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 14/02/2020 của Tòa án và sơ đồ đo đạc ngày 21/02/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện L V).

Các đương sự được đến Cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục đăng ký biến động đất đai đối với thửa đất của mình sử dụng theo quy định của pháp luật.

Tiền án phí dân sự sơ thẩm: Miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm cho bà Lê Thị B. Bà Lê Thị B được nhận lại 967.000 đồng tiền tạm ứng án phí, theo biên lai thu số BH/2018/0009054 ngày 16/12/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện LV.

Tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 2.794.000 đồng bà Lê Thị B chịu (đã thu và chi xong).

Ngoài ra bản án còn tuyên về quyền kháng cáo, quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự. Sau khi xét xử sơ thẩm bà B kháng cáo toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm là chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà.

- Tại phiên tòa phúc thẩm có mặt bà B, ông H, bà D; phiên tòa ngày 23/7/2022 vắng mặt ông H. Các đương sự có mặt và khẳng định đã xuất trình thêm đầy đủ chứng cứ cho Tòa án giải quyết vụ án.

Bà B trình bày: vẫn giữ yêu cầu khởi kiện đối buộc ông H chấm dứt hành vi xâm chiếm trả lại cho bà B diện tích là 240,5m2; giữ nguyên hiện trang 03 ngôi mộ đá; bồi thường thiệt hại về tài sản cây trồng do ông H chặt là 3.000.000 đồng. Bồi thường thiệt hại do không sử dụng đất được 10.500.000 đồng.

- Ông H, bà D trình bày: không đồng ý theo yêu cầu kiện; kháng cáo của bà B. Bà D đồng ý với bản án sơ thẩm; đề nghị xét xử theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thu ký đã chấp hành đúng theo quy định của pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp các đương sự thực hiện đúng theo quy định pháp luật, về nội dung giải quyết vụ án xét yêu cầu kháng cáo của bà Ba là không có cơ sở chấp nhận. Đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thành phần những người tham gia tố tụng và những người tiến hành tố tụng thì các đương sự thống nhất không có ai có yêu cầu bổ sung hay khiếu nại.

[2] Về nội dung tranh chấp qua thu thập chứng cứ Tòa án cấp sơ thẩm xác định yêu cầu khởi kiện của bà B như sau:

[2.1] Nguồn gốc đất của bà B là do ông c để lại cho ông M chồng bà B. Năm 1991 ông M được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích là 679m2, thửa 302, tờ bản đồ số 05. Khi ông M chết, bà B làm thủ tục thừa kế toàn bộ thửa 302 và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 25/01/2010 (phần diện tích đất được cấp giấy theo bản đồ 299 chưa được cấp đổi sang bản đồ địa chính chính quy. Thửa 302 đối chiếu bản đồ địa chính chính quy là thửa 42, tờ bản đồ số 32).

[2.2] Nguồn gốc đất của ông H có được là do ông Q (cho ông H) sử dụng từ năm 1980, ông H được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 1991, thửa 411b, diện tích là 2.000m2, mục đích sử dụng là đất màu.

[2.3] Phần đất bà bà tranh chấp với ông H theo đo đạc thực tế là 240,5m2 thể hiện ở các mốc 3,4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12 và trở về mốc 3, hiện trạng là đất trống, trên đất có 03 ngôi mộ đá. Quá trình sử dụng phần đất tranh chấp: Bà B xác định phần đất tranh chấp này từ trước đến nay bà B không có sử dụng vì bị ông H bao chiếm. Còn ông H, bà D thì xác định, phần đất tranh chấp từ trước đến nay ông H, bà D cùng sử dụng, việc ông H, bà D sử dụng đất có những người làm như ông Nguyễn Trọng Th, ông Võ Văn D, ông Võ Văn Đ, ông Võ Văn Bé B biết.

[2.4] Các ngôi mộ có trên đất tranh chấp, bà B thì xác định các ngôi mộ này không có bà con gì với bà và các ngôi mộ này có trước khi bà về ở trên đất. Còn ông H thì cho rằng trên đất có ngôi mộ của bà cố ông H, một ngôi mộ của cháu ông H và một ngôi mộ do ông Q là cha của ông H cho chôn từ rất lâu.

[2.5] Bà B rút lại yêu cầu về việc yêu cầu ông H di dời ngôi mộ trẻ nhỏ ra khỏi phần đất tranh chấp. Việc rút lại yêu cầu khởi kiện của bà B là tự nguyện, phù hợp với quy định tại Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự nên Đình chỉ giải quyết.

[2.6] Bà B cho rằng các người làm chứng nhu ông Nguyễn Trọng Th, Võ Văn D, Võ Văn Đ, Võ Văn Bé B xác nhận cho ông H về quá trình sử dụng đất tranh chấp của ông H là không đúng, cần phải làm rõ.

Bà B và ông H, bà D đều thống nhất là vào năm 2002 ông Q (cha ông H) có tranh chấp với ông M (chồng bà B), phần đất phía sau nhà của ông M, bà B. Việc tranh chấp được xã giải quyết nhưng không thành. Tại thời điểm này mặc dù tranh chấp chưa được giải quyết dứt điểm, nhưng theo ông H trình bày thì ông Q cũng đã cấm hai trụ đá (mốc 12 và mốc 3). Nay ông H lấy hai trụ đá (mốc 12 và mốc 3) này làm ranh và xác định không tranh chấp phần đất từ mốc 12 và mốc 3 trở vô sau nhà bà B. Còn bà B thì căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để yêu cầu ông H trả đất là chưa đủ cơ sở, vì phần đất tranh chấp bà B không có sử dụng, khi cấp đất cho ông M và từ ông M chuyển tên sang bà B thì không có đo đạc thực tế, những người giáp ranh không có ký giáp ranh.

[2.7] Theo văn bản số 2152/CNHLVO ngày 22/12/2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện LV xác định: Hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông M vào ngày 25/10/1991, thửa 302, tờ bản đồ số 05. Việc lưu trữ chưa đảm bảo theo quy định nên bị thất lạc không tìm được. Văn bản số 186/UBND-NC ngày 15/12/2020 của Ủy ban nhân dân huyện LV xác định khi cấp đất cho ông M và từ ông M chuyển tên sang bà B nhận thừa kế hết diện tích thửa đất, không có đo đạc thực tế.

[2.8] Từ những cơ sở trên, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà B về việc yêu cầu ông H trả đất và yêu cầu bồi thường thiệt hại trên đất. Xác định ranh đất giữa bà B thửa 302 và đất của ông H thửa 411b là hàng rào lưới B40 do ông H làm từ Mốc 12 đo qua 3. Đồng thời căn cứ vào đây để quy định chi phí án phí tố tụng dân sự sơ thẩm.

[3] Sau khi xét xử sơ thẩm bà B kháng cáo đề nghị sửa bản án sơ thẩm là chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà B đối ông H.

[4] Qua các chứng cứ có trong hồ sơ và thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm. Ngoài ghi nhận, xác định của Tòa án cấp sơ thẩm thì xét thấy ranh các thửa đất tranh chấp các bên sử dụng ổn định từ trước đến nay.

Theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 10/6/2022 của Tòa án Tỉnh ghi nhận vị trí phần đất ruộng của ông H tính ra lộ nhựa thì phần đất ruộng trước đây của ông H thấp hơn mặt đất ruộng 3 tấc, hiện hay ông H đã trồng cà na, cóc, ổi; Trên đất còn có 02 ngôi mộ của cụ Lê Thị L,cụ Phạm Văn T do gia đình ông H cho chôn cất Tại vị trí mộ của cụ Lộ đến mộ cụ T theo ông H trình bày trước đây ông có trồng Mè; phần còn lại từ nấm mộ của cụ Tr là phần mộ của bà cố ông, nấm mồ do ông H xây hơn 10 năm. Từ nấm mộ này ra mộ cụ Lộ trước đây có 03 ngôi mộ, không có cây trồng; hiện nay 03 ngôi mộ này đã di dời còn lại đất trống. Từ nấm mộ trở vô có 02 bụi chuối do bà B trồng, còn một nấm mộ không xác định của ai Vị trí M3 qua trụ đá M12 thì trụ đá đã mất. Trụ đá là của ông M với ông Q trồng để xác định ranh đất. Theo ông H từ trụ đá M3 qua trụ đá M12 ông có làm hàng rào lưới B40 khoảng 02 năm trước khi tranh chấp, sau khi tranh chấp Tòa án sơ thẩm xét xử thì bà B đã tháo dỡ. Từ mốc M12-M3 cách vô 2,5m đến 3 m là vị trí đất hầm trước đây tranh chấp thành quả lao động ông Q yêu cầu ông M trả số tiền là 500.000 đồng. Hiện nay bà B đã cất nhà bếp và nhà tắm.

Những người làm chứng theo yêu cầu của bà B, ông H xác minh đều xác định nguồn gốc phần đất tranh chấp là của ông Nguyễn Văn Q cha ông H để lại, ông Q cho những người dân trước đây chôn cất người chết trên đất; nhưng ranh đất vị trí cụ thể thì các ông bà không biết.

[5] Do đó không chấp căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà B. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp pháp luật nên chấp nhận. Các phần còn lại của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Về chi phí, án phí dân sự phúc thẩm: Do giữ nguyên bản án sơ thẩm, nên bà B phải chịu án phí phúc thẩm. Nhưng do bà B thuộc trường hợp người cao tuổi nên được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí cho bà B theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308; Điều 148 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Không chấp nhận kháng cáo bà Lê Thị B.

- Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

1. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của bà Lê Thị B về việc yêu cầu ông Nguyễn Văn H di dời ngôi mộ trẻ nhỏ ra khởi phần đất tranh chấp.

2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị B.

Xác định ranh đất giữa bà Lê Thị B thửa 302 với đất của ông Nguyễn Văn H thửa 411b là từ Mốc 12 đo qua Mốc 3.

(Kèm theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 14/02/2020 của Tòa án và sơ đồ đo đạc ngày 21/02/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện LV).

Các đương sự được đến Cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục đăng ký biến động đất đai đối với thửa đất của mình sử dụng theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí, chi phí dân sự sơ thẩm: Miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm cho bà Lê Thị B. Bà Lê Thị B được nhận lại 967.000 đồng tiền tạm ứng án phí, theo biên lai thu số BH/2018/0009054 ngày 16/12/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện LV.

Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 2.794.000 đồng bà Lê Thị B chịu (đã thu và chi xong).

4. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Lê Thị B được miễn nộp tiền án dân sự phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

301
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất số 315/2022/DS-PT

Số hiệu:315/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về