TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 26/2022/DS-PT NGÀY 14/01/2022 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, YÊU CẦU TRẢ GIÁ TRỊ TÀI SẢN VÀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 14 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số: 301/2021/TLPT-DS ngày 19 tháng 4 năm 2021 về tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu trả giá trị tài sản và hợp đồng tín dụng.Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 03/2021/DS-ST ngày 15 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 2824/2021/QĐ-PT ngày 10 tháng 12 năm 2021; giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: ông Phạm Văn T, sinh năm 1949; địa chỉ: Ấp 1, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; (vắng mặt);
- Người đại diện theo ủy quyền của ông T (theo Hợp đồng ủy quyền ngày 26/4/2021): Ông Mai T1, sinh năm 1976; địa chỉ: Số 21 đường Q, phường M, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp; (có mặt).
- Bị đơn:
1. Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1922; (vắng mặt);
2. Bà Phạm Thị N1, sinh năm 1970; (có mặt);
Cùng địa chỉ: Ấp 1, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.
Bà Nguyễn Thị N ủy quyền đại diện tham gia tố tụng cho bà Phạm Thị N1 (theo Văn bản ủy quyền ngày 01/3/2018).
- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Đào Thị Y, sinh năm 1954, (xin vắng mặt);
2. Bà Phạm Thị Mai T, sinh năm 1972, (xin vắng mặt);
3. Bà Phạm Thị Kim C, sinh năm 1977, (xin vắng mặt);
4. Bà Phạm Thị Kim E, sinh năm 1980, (xin vắng mặt);
5. Bà Phạm Thị Thúy K, sinh năm 1987, (xin vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Ấp 1, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.
6. Ông Phạm Văn U, sinh năm 1975; địa chỉ: Ấp 1, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; (vắng mặt);
7. Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Tháp.
- Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Thanh Nam - Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T; địa chỉ: Khóm 5, thị trấn Tràm Chim, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; (xin vắng mặt);
8. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Bùi Văn Phát – Giám đốc Chi nhánh huyện T, tỉnh Đồng Tháp, địa chỉ: Khóm 5, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; (xin vắng mặt);
- Người kháng cáo: Bị đơn bà Nguyễn Thị N và bà Phạm Thị N1.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Nguyên đơn ông Phạm Văn T trình bày:
Trước đây vào năm 1970, ông được bà Mười (tự là bà Dương Thị Thiểu) là em ruột của bà ngoại ông cho ông một phần đất tọa lạc tại xã P, chiều ngang là 28m, chiều dài khoảng 171,4m, tổng diện tích khoảng 4.760m2, ông quản lý và sử dụng phần đất trên để làm rẫy, đến năm 1985 thì Tập đoàn lấy toàn bộ phần đất trên để nuôi tôm. Do nuôi tôm không hiệu quả, năm 1989 thì Tập đoàn giao trả lại phần đất trên cho ông. Sau khi nhận lại đất ông tiến hành cải tạo đất để làm rẫy, khoảng một năm sau thì cất nhà ở cho đến nay, phần đất phía sau thì ông tiến hành trồng cây lâu năm như xoài hiện nay đã lớn và đang cho trái. Năm 1993 thì mẹ ông là bà Nguyễn Thị N tự động đi kê khai đăng ký giấy chứng nhận quyền sử dụng (QSD) đất mà bà Thiểu đã cho ông sử dụng. Hiện nay, phần đất ông đang quản lý sử dụng thuộc thửa số 3327, 3328, một phần thửa 3329 và một phần thửa 3460 do bà N và bà N1 đang đứng tên QSD đất.
Nay ông khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy giấy chứng nhận QSD đất đối với thửa 3327, 3328, một phần thửa 3329 và một phần thửa 3460, trong đó thửa 3327, 3328 do bà N đứng tên giấy chứng nhận QSD đất, thửa 3329 và 3460 do bà N1 đứng tên giấy chứng nhận QSD đất, tổng diện tích đo đạc thực tế là 3.762m2 theo sơ đồ đo đạc thực tế ngày 30/5/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T theo các mốc 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 15, 16, 17 trở về mốc 1 và công nhận phần diện tích đất nêu trên để ông đi kê khai đăng ký giấy chứng nhận QSD đất theo quy định pháp luật.
Sau khi có đơn khởi kiện phản tố của bà N và bà N1, ông không đồng ý theo yêu cầu của bà N và bà N1 và ông có yêu cầu như sau:
Yêu cầu Tòa án hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 3327, 3328, một phần thửa 3329 và một phần thửa 3460 và công nhận diện tích đất cho ông để ông đi kê khai đăng ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định. Trong đó thửa 3327, 3328 do bà N đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thửa 3329 và 3460 do bà N1 đứng tên giấy chứng nhận QSD đất, tổng diện tích đất 3.762m2, trong diện tích này sau khi trừ diện tích 187,9m2 Ủy ban nhân dân (UBND) huyện T thu hồi làm đường QL30 thì diện tích đất thực tế còn lại ông đang sử dụng tổng cộng là 3.574,1m2 gồm các mốc 1’, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 15’, 16’, 17’ trở về mốc 1’ theo Sơ đồ đo đạc bổ sung ngày 29/10/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T.
Đối với phần diện tích 187,9m2 gồm các mốc 1, 1’, 17’, 16’, 15’, 15, 16, 17 trở về mốc 1 do UBND huyện thu hồi làm đường QL30, ông yêu cầu được nhận tiền bồi thường theo quy định, ngoài ra ông không yêu cầu gì khác.
- Bị đơn bà Phạm Thị N1 và là người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị N trình bày:
Nguồn gốc phần đất đang tranh chấp hiện nay là của bà Dương Thị Thiểu (dì ruột bà N) giao cho bà N sử dụng và quản lý từ trước năm 1945, hằng năm bà N có đưa tiền cho bà Thiểu đến khi bà Thiểu chết năm 1986. Khoảng năm 1985, 1986 thì bị Tập đoàn lấy phần đất trên để nuôi tôm. Khoảng năm 1989 do nuôi tôm không hiệu quả, nên Tập đoàn có giao trả lại phần đất trên cho bà N quản lý sử dụng. Năm 1991 bà N có cho ông Thường là con bà N cất nhà ở và làm rẫy. Năm 1992 thì bà N đi kê khai đăng ký QSD đất và được UBND huyện T cấp giấy chứng nhận QSD đất là thửa 2257 ngày 01/12/1993. Năm 1992 ông Thường chết, vợ ông Thường bỏ đi nơi khác (ông Thường là con bà N). Năm 1994 bà N cho ông T vào ở tại vị trí mà ông Thường ở trước đây. Năm 2005 bà N có sang lấp cát trên phần đất thuộc thửa 3329 và có xây một hàng rào lưới B40, cao 1,5m, dài 50m. Năm 2012 bà N xin tách thửa từ thửa 2257 thành 05 thửa là thửa 3327, 3328, 3329, 3330, 3460. Sau đó bà N bán thửa 3330 cho người khác. Thửa 3329, 3460 bà làm thủ tục tặng cho bà N1 đứng tên, còn thửa 3327, 3328 do bà đứng tên.
Nay ông T khởi kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 3327, 3328, một phần thửa 3329 và một phần thửa 3460, công nhận phần diện tích đất trên cho ông T để ông T đi kê khai đăng ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà N, bà N1 không đồng ý. Nay bà N, bà N1 có yêu cầu phản tố như sau:
1. Bà N đồng ý để ông T sử dụng 200m2 đất thuộc một phần thửa 3328 tại vị trí có căn nhà của ông T ở hiện nay.
Bà N yêu cầu ông T di dời vật kiến trúc, tài sản của gia đình ông T nằm trên diện tích 150m2 thuộc một phần còn lại của thửa 3328 và trên diện tích 300m2 thuộc thửa 3327 để trả lại đất cho bà. Nếu ông T muốn sử dụng đất thì phải trả giá trị đất cho bà với giá là 60.000đồng/m2 thành tiền là 27.000.000 đồng.
Nếu Tòa án giao thửa 3329 cho ông T sử dụng thì ông T phải trả tiền bơm cát là 173.000.000 đồng và tiền xây hàng rào lưới B40 theo giá mà Hội đồng định giá đã định.
2. Bà N1 yêu cầu ông T di dời vật kiến trúc, tài sản của gia đình ông T nằm trên diện tích 1.846m2 thuộc một phần thửa 3460. Nếu ông T muốn sử dụng đất thì phải trả giá trị đất lại cho bà với giá là 60.000đ/m2 thành tiền là 110.760.000 đồng.
- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
+ Ủy ban nhân dân huyện T có văn bản cung cấp thông tin như sau:
Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị N diện tích 9.478m2 thuộc thửa 2257, tờ bản đồ số 2, số bìa 279091, số vào sổ 00427QSDĐ/A3, cấp ngày 01/12/1993 có đi khảo sát thực tế và được thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật tại thời điểm cấp giấy, nhưng sai về đối tượng sử dụng đất vì: Trong thửa 2257 có một phần diện tích đất do ông Phạm Văn T sử dụng, cụ thể:
Phần diện tích cây lâu năm ông T sử dụng từ năm 1986.
Còn phần đất ở thì ông T cất nhà sử dụng từ năm 1994 (sau thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà N).
+ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam Chi nhánh huyện T trình bày:
Ngân hàng yêu cầu bà Phạm Thị N1 và ông Phạm Văn U phải trả số tiền vay gốc là 437.500.000 đồng và tiền lãi tính đến ngày 18/9/2019 là 21.437.500 đồng; tổng cộng tiền gốc và tiền lãi là 458.937.500 đồng. Tuy nhiên, đến ngày 18/10/2019 bà N1 đã trả số tiền lãi là 26.687.500 đồng, ngày 21/4/2020 bà N1 trả số tiền gốc là 62.500.000 đồng và tiền lãi là 26.604.167 đồng, hiện nay còn dư nợ gốc là 375.000.000 đồng và tiền lãi tính đến ngày 31/12/2020 là 8.500.000 đồng nên Ngân hàng yêu cầu bà N1 và ông U phải trả số tiền còn lại cho Ngân hàng, tổng cộng vốn và lãi là 383.500.000 đồng và yêu cầu tiếp tục tính lãi từ ngày 01/01/2021 theo Hợp đồng tín dụng số 01221811.090 ngày 24/4/2018 cho đến khi trả hết số tiền vay.
Ngân hàng không khởi kiện yêu cầu xử lý đối với Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 01221811.090 ngày 17/4/2018 diện tích đất lúa 12.478m2, do bà Phạm Thị N1 và ông Phạm Văn U đứng tên.
Bà Phạm Thị N1 và ông Phạm Văn U thống nhất trả cho Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam Chi nhánh huyện T số tiền vay gốc và tiền lãi theo yêu cầu của Ngân hàng và đồng ý tiếp tục tính lãi từ ngày 01/01/2021 theo Hợp đồng tín dụng số 01221811.090 ngày 24/4/2018 cho đến khi trả hết số tiền vay.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 03/2021/DS-ST ngày 15/3/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn T.
Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Tháp cấp cho hộ bà Nguyễn Thị N vào ngày 20/8/2012 có số vào sổ cấp GCN: CH 00769 tại thửa 3327, tờ bản đồ số 2, đối với diện tích 300m2 và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp vào ngày 20/8/2012 có số vào sổ cấp GCN: CH 00770 tại thửa 3328, tờ bản đồ số 2, đối với diện tích 350m2, mục đích sử dụng: Đất nuôi trồng thủy sản, đất tọa lạc tại ấp 1, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.
Hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Tháp cấp cho bà Phạm Thị N1 vào ngày 22/12/2016 có số vào sổ cấp GCN: CH 02434 tại thửa 3329, tờ bản đồ số 2, đối với diện tích 578m2 và hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà Phạm Thị N1 vào ngày 01/10/2015 có số vào sổ cấp GCN: CH 01796 tại thửa 3460, tờ bản đồ số 2, đối với diện tích 2.534m2, mục đích sử dụng: Đất nuôi trồng thủy sản, đất tọa lạc tại ấp 1, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp theo sơ đồ đo đạc thực tế ngày 30/5/2019 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện T.
2. Công nhận cho ông Phạm Văn T được quyền sử dụng diện tích 300m2 đất tại thửa 3327 (trong đó có 37,9m2 thu hồi làm đường QL30); diện tích 350m2 tại thửa 3328 (trong đó có 44,4m2 thu hồi làm đường QL30); một phần diện tích 578m2 tại thửa 3329 (trong đó có 72,8m2 thu hồi làm đường QL30); một phần diện tích 2.534m2 tại thửa 3460 (trong đó có 32,8m2 thu hồi làm đường QL30) thuộc tờ bản đồ số 2, mục đích sử dụng: Đất nuôi trồng thủy sản, tổng diện tích là 3.762m2 gồm các mốc 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 15, 16, 17 trở về mốc 1, đất tọa lạc tại ấp 1, xã P, huyện T, theo sơ đồ đo đạc thực tế ngày 30/5/2019, sơ đồ đo đạc bổ sung ngày 29/10/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T.
Đối với diện tích 187,9m2 do Ủy ban huyện thu hồi làm đường QL30 gồm các mốc 1, 1’, 17’, 16’, 15’, 15, 16, 17, trở về mốc 1 theo sơ đồ đo đạc bổ sung ngày 29/10/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T ông T có trách nhiệm đến Ủy ban nhân dân huyện T làm thủ tục để được bồi thường theo quy định của pháp luật.
(Kèm theo biên bản xem xét thẩm định ngày 13/9/2018, sơ đồ đo đạc, sơ đồ mốc ngày 30/5/2019, sơ đồ đo đạc bổ sung ngày 29/10/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T).
Các đương sự có trách nhiệm đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để kê khai, điều chỉnh đăng ký quyền sử dụng đất theo bản án tuyên. Ông T, bà N, bà N1 có trách nhiệm đến Ủy ban nhân dân huyện T để làm thủ tục bồi thường trên diện tích được thu hồi theo quy định của pháp luật.
3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị N về việc yêu cầu ông T di dời vật kiến trúc, tài sản có trên thửa 3328 và thửa 3327 để trả lại đất cho bà. Nếu ông T muốn sử dụng các thửa đất trên thì phải trả giá trị đất cho bà với giá là 60.000đồng/m2 và 173.000.000đ tiền bơm cát trên thửa đất 3329.
4. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị N yêu cầu ông T trả giá trị hàng rào lưới B40.
Công nhận sự tự nguyện của ông T tự nguyện trả giá trị hàng rào lưới B40 cho bà N là 11.147.520 đồng và tự nguyện trả giá trị căn nhà gỗ tạm bằng cây tạp cho bà N1 số tiền là 6.468.360 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Ông T được sử dụng hàng rào lưới B40, căn nhà gỗ tạm bằng cây tạp theo biên bản định giá ngày 04/9/2020 (kèm theo Biên bản định giá ngày 04/9/2020).
5. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị N1 về việc yêu cầu ông T di dời vật kiến trúc, tài sản có trên một phần thửa 3460 để trả lại đất cho bà. Nếu ông T muốn sử dụng các thửa đất trên thì phải trả giá trị đất cho bà với giá là 60.000 đồng/m2.
6. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam Chi nhánh huyện T.
Buộc bà Phạm Thị N1 và ông Phạm Văn U phải trả số tiền gốc cho Ngân hàng là 375.000.000 đồng và tiền lãi tính đến ngày 31/12/2020 là 8.500.000 đồng tổng cộng vốn và lãi là 383.500.000 đồng và tiếp tục tính lãi từ ngày 01/01/2021 theo hợp đồng tín dụng số 01221811.090 ngày 24/4/2018 cho đến khi trả hết số tiền vay.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, chi phí xem xét thẩm định, định giá, về án phí dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 24/3/2021, bị đơn bà Nguyễn Thị N và bà Phạm Thị N1 có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm với yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án án sơ thẩm.
Ngày 31/3/2021, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Văn U có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm với yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị đơn bà Phạm Thị N1, đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị N, trình bày kháng cáo của các bị đơn là yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận yêu cầu phản tố của các bị đơn.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có kháng cáo ông Phạm Văn U vắng mặt.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát: Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã tiến hành giải quyết vụ án đúng theo quy định pháp luật; các đương sự có mặt tại phiên tòa chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự.
Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có kháng cáo ông Phạm Văn U đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do nên thuộc trường hợp bị coi như từ bỏ việc kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của ông U.
Về kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị N và bà Phạm Thị N1:
Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn T, không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Nguyễn Thị N và bà Phạm Thị N1 là có căn cứ, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án, đúng quy định pháp luật. Bị đơn bà Nguyễn Thị N và bà Phạm Thị N1 kháng cáo nhưng không có tài liệu, chứng cứ nào mới nên không có cơ sở; đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm bác kháng cáo của bà N và bà N1, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Đơn kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị N, bà Phạm Thị N1 và đơn kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Văn U nộp trong thời hạn và đúng thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự nên hợp lệ.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có kháng cáo ông Phạm Văn U đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do, thuộc trường hợp bị coi như từ bỏ việc kháng cáo, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của ông U theo quy định tại khoản 3 Điều 296 của Bộ luật tố tụng Dân sự.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan còn lại trong vụ án vắng mặt nhưng đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành xét xử vụ án vắng mặt các đương sự này theo quy định tại khoản 3 Điều 296 của Bộ luật tố tụng Dân sự.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở nhận định:
[1] Về tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, thụ lý và giải quyết vụ án đúng thẩm quyền và thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị N và bà Phạm Thị N1:
[2.1] Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:
[2.1.1] Ngày 01/12/1993, UBND huyện T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị N đối với 09 thửa đất, tổng diện tích là 54.269m2, trong đó có thửa 2257, diện tích 9.478m2 (là thửa đất có diện tích đất các bên đang tranh chấp trong vụ án này); sau đó, thửa 2257 được bà N tách ra thành 05 thửa gồm: Thửa số 3327 diện tích là 300m2, thửa 3328 diện tích là 350m2, thửa 3329 diện tích là 650m2, thửa 3460 diện tích là 7.778m2 mục đích sử dụng là đất nuôi trồng thủy sản và thửa 3330 diện tích 400m2 là đất ao (thửa 3327, 3328, 3330 do bà N đứng tên; thửa 3329, 3460 do bà N1 đứng tên QSD đất).
[2.1.2] Tuy nhiên, theo Biên bản xem xét thẩm định ngày 13/9/2018, Sơ đồ đo đạc, Sơ đồ mốc ngày 30/5/2019, Sơ đồ đo đạc bổ sung ngày 29/10/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T, thể hiện: Ông Phạm Văn T đang quản lý sử dụng diện tích 300m2 đất tại thửa 3327 (trong đó có 37,9m2 thu hồi làm đường QL30); diện tích 350m2 tại thửa 3328 (trong đó có 44,4m2 thu hồi làm đường QL30); một phần diện tích 578m2 tại thửa 3329 (trong đó có 72,8m2 thu hồi làm đường QL30); một phần diện tích 2.534m2 tại thửa 3460 (trong đó có 32,8m2 thu hồi làm đường QL30) thuộc tờ bản đồ số 2, mục đích sử dụng: Đất nuôi trồng thủy sản, tổng diện tích là 3.762m2 gồm các mốc 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 15, 16, 17 trở về mốc 1, đất tọa lạc tại ấp 1, xã P, huyện T, theo Sơ đồ đo đạc thực tế ngày 30/5/2019, Sơ đồ đo đạc bổ sung ngày 29/10/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T.
Các đương sự đều xác định, nguồn gốc thửa đất 2257 đang tranh chấp là của bà Dương Thị Thiểu (bà Thiểu là dì ruột của bà N, bà N là mẹ ông T, bà N1).
[2.1.2a] Ông T cho rằng, khi bà Thiểu còn sống, vào năm 1970 ông T có xin bà Thiểu phần đất cặp QL30 để sử dụng trồng cây và cất nhà ở như hiện nay, việc hỏi xin không có giấy tờ, nhưng theo lời khai của ông Nguyễn Văn Út là con ruột của bà Thiểu xác nhận (BL 106) hiện phần đất đang tranh chấp ông T đang sử dụng trồng cây và cất nhà ở là do bà Thiểu đã cho ông T sử dụng đúng như lời ông T trình bày.
Đến năm 1984, khi Nhà nước (Tập đoàn) trưng dụng thửa đất trên để nuôi tôm, qua nhiều năm nuôi tôm không có hiệu quả đến khoảng năm 1986 thì Tập đoàn giao trả đất lại cho ông T và ông T cũng tiếp tục sử dụng, ông T đã làm rẫy, trồng cây ăn trái và cất nhà ở từ khi Tập đoàn giao trả lại đất cho ông T sử dụng đến nay.
Xét việc ông T cho rằng, ông sử dụng diện tích đất trên là được sự đồng ý của bà Dương Thị Thiểu là phù hợp với lời khai của ông Nguyễn Văn Út là con của bà Thiểu xác nhận. Đồng thời, xét quá trình sử dụng đất của ông T cũng phù hợp với lời khai của ông Phạm Văn Phúc là Tập đoàn trưởng vào năm 1983, 1986; lời khai của ông Phạm Văn Tiều là Tập đoàn phó vào năm 1983, 1985, đến năm 1985, 1995 ông Tiều là Tập đoàn trưởng, vì họ đều xác định phần đất đang tranh chấp là do ông T trực tiếp sử dụng từ năm 1981, 1982, năm 1984, 1985 Tập đoàn trưng dụng đất để nuôi tôm, do nuôi không có hiệu quả nên đến năm 1988 Tập đoàn đứng ra trả đất lại cho ông T (lúc đó ông Tiều là người trực tiếp giao trả đất lại cho ông T) ông T tiến hành cải tạo lại đất lắp ao nuôi tôm để trồng cây cất nhà ở cặp QL30, một thời gian cải tạo đất ông T tiếp tục trồng xoài. Ông Phúc, ông Tiều đều khẳng định tại thời điểm Tập đoàn trưng dụng đất để nuôi tôm thì ông T là người đang trực tiếp sử dụng, bà N không có sử dụng, đến khi trả lại đất thì Tập đoàn cũng trực tiếp trả lại cho ông T. Việc bà N1 trình bày lúc Tập đoàn trưng dụng đất để nuôi tôm cũng như khi Tập đoàn giao trả lại đất bà N là người đang quản lý sử dụng diện tích đất trên là hoàn toàn không đúng thực tế, vì lúc Tập đoàn trưng dụng đất tại thời điểm năm 1985 ông Phúc là Tập đoàn trưởng là người trực tiếp đến gặp ông T để vận động theo chủ trương của Huyện ủy huyện T, đến khi giao trả lại đất năm 1988 ông Tiều là Tập đoàn trưởng là người trực tiếp giao đất lại cho ông T.
[2.1.2b] Mặt khác, theo Báo cáo số 89/BC-TTr ngày 01/10/2012 của Thanh tra huyện T và Công văn số 885/UBND-NC, ngày 31/10/2012 và Công văn số 709/UBND-NC ngày 17/6/2019 của Ủy ban nhân dân huyện T về việc cung cấp thông tin xác định: Năm 1992 khi đoàn đo đạc đến đo đạc theo chủ trương kê khai đăng ký của Nhà nước để người dân được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà N đã đăng ký đất của bà đang sử dụng và đăng ký luôn toàn bộ thửa 2257 (là thửa đất trước đây của bà Thiểu), khi đó ông T chưa cất nhà ở trên thửa đất nói trên, nhưng ông T là người trực tiếp quản lý sử dụng phần đất này để trồng cây lâu năm, nên Ủy ban nhân dân huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà N tại thửa 2257 là sai một phần đối tượng sử dụng theo quy định tại Điều 50 Luật đất đai năm 2003.
[2.1.2c] Như vậy, đã có đủ cơ sở xác định ông T là người trực tiếp sử dụng hợp pháp phần đất đang tranh chấp có thời gian dài trên 30 năm. Do đó, xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 3327, 3328, một phần thửa 3329 và một phần thửa 3460; tổng diện tích là 3.762m2 gồm các mốc 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 15, 16, 17 trở về mốc 1 theo sơ đồ đo đạc ngày 30/5/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T và công nhận phần diện tích đất nêu trên cho ông T, ông T có trách nhiệm đi kê khai đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật là có căn cứ, nên Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T, là đúng.
[2.1.2d] Theo đó, ông T được quyền đến Ủy ban nhân dân huyện T làm thủ tục để được bồi thường theo quy định của pháp luật đối với diện tích 187,9m2 do Ủy ban huyện thu hồi làm đường QL30 gồm các mốc 1, 1’, 17’, 16’, 15’, 15, 16, 17, trở về mốc 1 theo sơ đồ đo đạc bổ sung ngày 29/10/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T.
[2.2] Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn bà N và bà N1, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:
[2.2.1] Do đã xác định được phần diện tích đất đang tranh chấp tại thửa 3327, 3328, một phần thửa 3329, 3460 nguồn gốc đất là của bà Dương Thị Thiểu tặng cho ông T từ năm 1970, đến năm 1984-1985 Tập đoàn đã trưng dụng thu hồi các thửa đất nêu trên để nuôi tôm, qua nhiều năm nuôi tôm không có hiệu quả đến khoảng năm 1988 thì Tập đoàn giao trả phần đất tranh chấp lại cho ông T. Sau khi được trả lại, ông cũng đã cải tạo lại đất, tiếp tục sử dụng làm rẫy, trồng cây ăn trái, cây lâu năm, cất nhà ở cho đến nay. Đến năm 1992, khi đoàn đo đạc đến đo đạc để cấp giấy chứng nhận đất, thì bà N đã tự ý đi đăng ký toàn bộ thửa đất của bà Thiểu, trong đó có phần diện tích đất đang tranh chấp mà bà Thiểu đã cho ông T quản lý sử dụng để làm rẫy, trồng cây ăn trái, cây lâu năm và cất nhà ở, nhưng Ủy ban nhân dân huyện T lại cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà N cả phần đất mà bà Thiểu đã cho ông T vào năm 1970 là không đúng đối tượng sử dụng đất theo quy định tại Điều 50 Luật Đất đai năm 2003, nêu yêu cầu phản tố của bà N và bà N1 là không có cơ sở.
[2.2.2] Tuy nhiên, đối với yêu cầu của bà N yêu cầu ông T trả giá trị hàng rào lưới B40 theo giá mà Hội đồng định giá đã định, tại phiên tòa sơ thẩm ông T tự nguyện trả giá trị hàng rào lưới B40 cho bà N và tự nguyện trả giá trị căn nhà gỗ tạm, bằng cây tạp cho bà N1, nên Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận sự tự nguyện này của ông T là phù hợp, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự có liên quan theo quy định pháp luật.
[2.2.3] Đối với yêu cầu của bà N yêu cầu ông T trả giá trị tiền bơm cát trên thửa đất 3329 đang tranh chấp với giá 173.000.000 đồng, xét thấy: Theo lời khai của bà N cho rằng năm 2005 bà có bơm cát vào thửa đất 3329, nhưng bà cũng không có giấy tờ chứng cứ gì cung cấp để chứng minh, nên Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận, là đúng.
[3] Từ những phân tích và nhận định nêu trên xét thấy, kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị N và bà Phạm Thị N1 là không có cơ sở, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm thống nhất với ý kiến, quan điểm đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, không chấp nhận kháng cáo của bà N và bà N1; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm:
Người kháng cáo bà Nguyễn Thị N là người cao tuổi thuộc trường hợp được miễn nộp án phí dân sự phúc thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Người kháng cáo bà Phạm Thị N1 phải nộp án phí dân sự phúc thẩm theo theo quy định tại khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Sung vào công quỹ Nhà nước số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm ông Phạm Văn U đã nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 18 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1- Căn cứ vào khoản 3 Điều 296 của Bộ luật tố tụng Dân sự.
Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Văn U
2- Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng Dân sự.
Không chấp nhận kháng cáo của các bị đơn bà Nguyễn Thị N, bà Phạm Thị N1; giữ nguyên Bản án dân sơ thẩm số: 03/2021/DS-ST ngày 15/3/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp: Căn cứ các Điều 26, 34, 37, 91, 146, 147 của Bộ luật tố tụng Dân sự; các Điều 100, 105, 106, 203 của Luật Đất đai năm 2013; Điều 463 và Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
2.1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn T.
Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Tháp cấp cho hộ bà Nguyễn Thị N vào ngày 20/8/2012 có số vào sổ cấp GCN: CH 00769 tại thửa 3327, tờ bản đồ số 2, đối với diện tích 300m2 và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp vào ngày 20/8/2012 có số vào sổ cấp GCN: CH 00770 tại thửa 3328, tờ bản đồ số 2, đối với diện tích 350m2, mục đích sử dụng: Đất nuôi trồng thủy sản, đất tọa lạc tại ấp 1, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.
Hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Tháp cấp cho bà Phạm Thị N1 vào ngày 22/12/2016 có số vào sổ cấp GCN: CH 02434 tại thửa 3329, tờ bản đồ số 2, đối với diện tích 578m2 và hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà Phạm Thị N1 vào ngày 01/10/2015 có số vào sổ cấp GCN: CH 01796 tại thửa 3460, tờ bản đồ số 2, đối với diện tích 2.534m2, mục đích sử dụng: Đất nuôi trồng thủy sản, đất tọa lạc tại ấp 1, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp, theo Sơ đồ đo đạc hiện trạng ngày 30/5/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T.
2.2. Công nhận cho ông Phạm Văn T được quyền sử dụng diện tích 300m2 đất tại thửa 3327 (trong đó có 37,9m2 thu hồi làm đường QL30); diện tích 350m2 tại thửa 3328 (trong đó có 44,4m2 thu hồi làm đường QL30); một phần diện tích 578m2 tại thửa 3329 (trong đó có 72,8m2 thu hồi làm đường QL30); một phần diện tích 2.534m2 tại thửa 3460 (trong đó có 32,8m2 thu hồi làm đường QL30) thuộc tờ bản đồ số 2, mục đích sử dụng: Đất nuôi trồng thủy sản, tổng diện tích là 3.762m2 gồm các mốc 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 15, 16, 17 trở về mốc 1, đất tọa lạc tại ấp 1, xã P, huyện T, theo Sơ đồ đo đạc hiện trạng ngày 30/5/2019 và Sơ đồ đo đạc hiện trạng ngày 29/10/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T.
Đối với diện tích 187,9m2 do Ủy ban huyện thu hồi làm đường QL30 gồm các mốc 1, 1’, 17’, 16’, 15’, 15, 16, 17, trở về mốc 1 theo Sơ đồ đo đạc bổ sung ngày 29/10/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T ông T có trách nhiệm đến Ủy ban nhân dân huyện T làm thủ tục để được bồi thường theo quy định của pháp luật.
(Kèm theo Sơ đồ đo đạc hiện trạng ngày 30/5/2019 và Sơ đồ đo đạc hiện trạng ngày 29/10/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T) Các đương sự có trách nhiệm đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để kê khai, điều chỉnh đăng ký quyền sử dụng đất theo bản án đã tuyên. Ông T, bà N, bà N1 có trách nhiệm đến Ủy ban nhân dân huyện T để làm thủ tục bồi thường trên diện tích được thu hồi theo quy định của pháp luật.
2.3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị N về việc yêu cầu ông T di dời vật kiến trúc, tài sản có trên thửa 3328 và thửa 3327 để trả lại đất cho bà. Nếu ông T muốn sử dụng các thửa đất trên thì phải trả giá trị đất cho bà với giá là 60.000đồng/m2 và 173.000.000 đồng tiền bơm cát trên thửa đất 3329.
2.4. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị N yêu cầu ông T trả giá trị hàng rào lưới B40.
Công nhận sự tự nguyện của ông T tự nguyện trả giá trị hàng rào lưới B40 cho bà N là 11.147.520 đồng và tự nguyện trả giá trị căn nhà gỗ tạm bằng cây tạp cho bà N1 số tiền là 6.468.360 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Ông T được sử dụng hàng rào lưới B40, căn nhà gỗ tạm bằng cây tạp theo Biên bản định giá ngày 04/9/2020.
2.5. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị N1 về việc yêu cầu ông T di dời vật kiến trúc, tài sản có trên một phần thửa 3460 để trả lại đất cho bà. Nếu ông T muốn sử dụng các thửa đất trên thì phải trả giá trị đất cho bà với giá là 60.000 đồng/m2.
2.6. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam Chi nhánh huyện T.
Buộc bà Phạm Thị N1 và ông Phạm Văn U phải trả số tiền gốc cho Ngân hàng là 375.000.000 đồng và tiền lãi tính đến ngày 31/12/2020 là 8.500.000 đồng tổng cộng vốn và lãi là 383.500.000 đồng và tiếp tục tính lãi từ ngày 01/01/2021 theo hợp đồng tín dụng số 01221811.090 ngày 24/4/2018 cho đến khi trả hết số tiền vay.
2.7. Về chi phí tố tụng và chi phí xem xét thẩm định, định giá:
+ Nguyên đơn ông Phạm Văn T tự nguyện chịu 6.980.000 đồng (ông T đã tạm ứng và đã chi xong).
+ Bà N, bà N1 phải chịu chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá bổ sung là 2.100.000 đồng (bà N1 và bà N đã tạm ứng và đã chi xong).
2.8. Về án phí dân sự sơ thẩm:
+ Miễn tiền án phí sơ thẩm cho bà Nguyễn Thị N và ông Phạm Văn T.
+ Bà Phạm Thị N1 phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu phản tố không được chấp nhận, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí 2.769.000 đồng theo Biên lai thu số 0006033 ngày 08/10/2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Tháp, bà N1 được nhận lại 2.469.000 đồng tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Tháp.
+ Bà Phạm Thị N1, ông Phạm Văn U phải chịu 19.168.750 đồng án phí sơ thẩm đối với nghĩa vụ trả nợ (trong đó mỗi người phải chịu ½ là 9.584.375 đồng).
+ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam Chi nhánh huyện T không phải chịu tiền án phí sơ thẩm. Ngân hàng được nhận lại số tiền tạm ứng án phí 11.178.500 đồng đã nộp theo Biên lai số 0005645 ngày 11/10/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.
3- Về án phí dân sự phúc thẩm:
+ Sung vào công quỹ Nhà nước số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm ông Phạm Văn U đã nộp theo Biên lai thu số 0006163 ngày 09/4/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Tháp.
+ Bà Nguyễn Thị N được miễn nộp án phí dân sự phúc thẩm.
+ Bà Phạm Thị N1 phải nộp 300.000 đồng; nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm bà N1 đã nộp theo Biên lai thu số 0006135 ngày 29/3/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Tháp; bà N1 đã nộp đủ án phí dân sự phuc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án là ngày 14 tháng 01 năm 2022./.
Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu trả giá trị tài sản và hợp đồng tín dụng số 26/2022/DS-PT
Số hiệu: | 26/2022/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 14/01/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về