Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 350/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 350/2022/DS-PT NGÀY 27/05/2022 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ YÊU CẦU HUỶ GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 27 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 369/2021/TLPT- DS ngày 10 tháng 6 năm 2021, về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2021/DS-ST ngày 22 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 611/2022/QĐPT-DS ngày 04 tháng 5 năm 2022; giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà VTTT, sinh năm 1966; Địa chỉ: số **, ấp B, xã Bình Thành, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp (có mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà VTTT: Ông Lê Văn N, là Luật sư của Công ty Luật Hà Văn Thượng, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

- Bị đơn: Bà MTN, sinh năm 1969; Địa chỉ: số **, ấp A, xã H, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp (vắng mặt).

Người đại diện hợp pháp của bà MTN: Ông PNT, sinh năm 1987; Địa chỉ: ấp A, xã Hội An Đông, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp (Văn bản ủy quyền ngày 04/01/2019, có mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà MTN: Ông Trương Hoài P, là Luật sư của Văn phòng Luật sư Hoài Phúc, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh MHT, sinh năm 1991 (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

2. Chị Mai Kim N, sinh năm 2006 (vắng mặt).

Cùng địa chỉ cư trú: số **, ấp B, xã Bình Thành, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp.

Người đại diện theo pháp luật của chị Mai Kim N: Bà VTTT, là mẹ ruột.

3. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Tháp; Địa chỉ trụ sở: Quốc lộ b, xã An Bình, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp (vắng mặt).

- Người kháng cáo: Bà MTN là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà VTTT trình bày:

Nguồn gốc đất tranh chấp này là của ông MVT (chết năm 2015) có nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ hộ ông NNT thửa đất số 725, tờ bản đồ số 46, diện tích là 169m2, đất tọa lạc xã Bình Thạnh Trung, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp. Do hoàn cảnh lúc đó bà VTTT đang nuôi con nhỏ và ông đang bệnh nên không tiện việc đi lại làm thủ tục nên ông MVT đã để em chồng bà VTTT là bà MTN đứng tên toàn bộ diện tích mà ông MVT đã nhận chuyển nhượng từ ông NNT. Chi phí chuyển nhượng và giá trị chuyển nhượng do ông MVT là người trực tiếp chi trả cho ông NNT. Đến tháng 10 năm 2017, bà VTTT có có nhờ bà MTN ký vào hồ sơ cấp đổi giấy chứng nhận và điều chỉnh lại diện tích 169m2 thành 163,8m2, từ thửa 725 thành thửa 404, tờ bản đồ số 46. Đến tháng 03/2018, bà VTTT nhờ bà MTN ký hồ sơ tách thửa 404 thành thửa 540 và thửa 541 để chuyển quyền sử dụng đất lại cho bà VTTT. Bà VTTT yêu cầu bà MTN chuyển quyền sử dụng đất lại cho bà VTTT, lúc đầu bà MTN đồng ý nhưng sau đó thì đổi ý không chuyển nhượng cho bà VTTT.

Nay bà VTTT yêu cầu bà MTN trả lại quyền sử dụng đất thửa số 540, tờ bản đồ số 46, diện tích là 81,9m2 và thửa 541, tờ bản đồ số 46 diện tích là 81,9m2 do bà MTN đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đất tọa lạc xã Bình Thạnh Trung, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp, và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà MTN để giao đất lại cho con là MHT thừa hưởng, sử dụng và đứng tên làm chủ quyền sử dụng đất.

Về kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ, sơ đồ đo đạc và biên bản thỏa thuận giá thì thống nhất.

Đại diện theo ủy quyền của bị đơn MTN là ông PNT trình bày:

Ngày 29/6/2010, bà MTN có nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ hộ ông NNT, sinh năm 1958, thửa đất số 725, tờ bản đồ 01a, diện tích 169m2, mục đích sử dụng là đất trồng cây lâu năm. Đến ngày 09/7/2010, bà MTN được UBND huyện Lấp Vò cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BB 899229, số vào sổ 00425. Ngày 09 tháng 7 năm 2010, bà MTN có chuyển mục đích sử dụng từ đất trồng cây lâu năm sang đất ở và có nộp tiền sử dụng đất. Ngày 06/9/2017, bà MTN có làm hồ sơ xin cấp đổi quyền sử dụng đất theo bản đồ địa chính chính quy. Đến ngày 03/10/2017, bà MTN được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Tháp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất CI081204, số vào sổ CS 10387, thửa 404, tờ bản đồ số 46, diện tích 163,8m2, đất tọa lạc ấp Bình Hiệp A, xã Bình Thạnh Trung, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp. Ngày 23/02/2018, bà MTN có làm thủ tục tách thành 02 thửa: Số 540, tờ bản đồ số 46, diện tích là 81,9m2 và thửa 541, tờ bản đồ số 46 diện tích là 81,9m2 do bà MTN đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nay bà MTN không đồng ý trả lại cho bà VTTT quyền sử dụng đất thửa số 540, tờ bản đồ số 46, diện tích là 81,9m2 và thửa 541, tờ bản đồ số 46 diện tích là 81,9m2 do bà MTN đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, và không đồng ý hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà MTN theo yêu cầu của bà VTTT.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh MHT trình bày: Anh MHT có văn bản nêu ý kiến xác định anh MHT là con của ông MVT và bà VTTT, ông MVT đã chết, nay bà VTTT cùng anh MHT và người em ruột tên N đều thống nhất hai thửa đất tranh chấp khi bà MTN trả lại sẽ giao hết cho anh MHT thừa hưởng quyền sử dụng và đứng tên làm chủ.

Về kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ, sơ đồ đo đạc và biên bản thỏa thuận giá thì thống nhất.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Sở Tài nguyên và Môi trường do anh NHH trình bày: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Tháp ký cấp giấy là dựa trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện Lấp Vò cấp, Sở cấp đổi theo bản đồ lưới và tách thửa cho người đang có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đúng, nên chưa có căn cứ để hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo yêu cầu của bà VTTT.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2021/DS-ST ngày 22/4/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp đã tuyên xử:

Căn cứ vào khoản 9 Điều 26, Điều 34, Điều 37, Điều 147, Điều 157 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 26, điểm k khoản 4, Điều 95, Điều 99, Điều 100, khoản 1 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án,

[1] Chấp nhận toàn bộ yêu cầu về tranh chấp quyền sử dụng đất của bà VTTT đối với bà MTN.

[1.1] Các thửa đất tranh chấp gồm: Thửa số 540, diện tích 81,9m2 và thửa số 541, diện tích 81,9m2, cùng loại đất ở tại nộng thôn, cùng tờ bản đồ số 46, xã Bình Thạnh Trung, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp là thuộc quyền sử dụng đất của anh MHT; vị trí, hình thể, mốc giới, số đo các cạnh được thể hiện theo Sơ đồ đo đạc số TĐ: 02-2019 ngày 25/02/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Lấp Vò.

[1.2] Hủy các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy số bìa CM 792112, số vào sổ cấp GCN: CS10671 đối với thửa đất số 541, tờ bản đồ số 46, diện tích 81,9m2, mục đích sử dụng: Đất ở nông thôn và giấy số bìa CM 792113, số vào sổ cấp GCN: CS 10672 đối với thửa đất số 540, tờ bản đồ số 46, diện tích 81,9m2, mục đích sử dụng: Đất ở nông thôn, cả 2 giấy đều do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Tháp cấp cùng ngày 05/3/2018, tên người sử dụng đất là bà MTN.

[2] Anh MHT phải đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất, để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật (có sơ đồ đo đạc ngày 25/02/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Lấp Vò kèm theo bản án này).

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về các chi phí tố tụng, về án phí, các quy định về thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 04/5/2021, bà MTN kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bà VTTT là nguyên đơn không thay đổi, bổ sung, không rút đơn khởi kiện, yêu cầu giữ nguyên bản án sơ thẩm. Ông PNT là người đại diện hợp pháp của bà MTN không thay đổi, bổ sung và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo ban đầu. Các đương sự khác vắng mặt tại phiên toà nên không thể hiện ý kiến. Các đương sự không tự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Trong phần tranh luận, các đương sự trình bày như sau:

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà MTN: Biên bản hoà giải ngày 08/8/2017 tại UBND xã Bình Thạnh Trung ban đầu được viết bằng tay, nhưng khi đánh máy không có chữ ký của các đương sự ở mỗi trang nên không có giá trị pháp lý. Ông MVT là anh ruột của bà MTN nên việc bà MTN đưa tiền, nhờ ông MVT mua đất và đứng tên giấy chứng nhận là chuyện bình thường. Bản thân bà VTTT không chứng minh được việc ông MVT bỏ tiền mua đất và nhờ bà MTN đứng tên giùm. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà MTN, sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà VTTT.

Ông PNT: Không bổ sung gì thêm.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà VTTT: Biên bản hoà giải ngày 08/8/2017 tại UBND xã Bình Thạnh Trung ban đầu được viết bằng tay, có đầy đủ chữ ký của những người tiến hành hoà giải, những người tham gia buổi hoà giải, nên có giá trị pháp lý. Việc biên bản đánh máy không có chữ ký của các đương sự ở từng trang không làm mất đi giá trị của biên bản, vì nội dung giữa bản viết tay và bản đánh máy hoàn toàn giống nhau. Ông NNT là người bán đất xác định ông MVT là người giao dịch, trả tiền. Theo kết luận giám định, chữ ký, chữ viết mang tên bà MTN trong hợp đồng mua bán đất là của ông MVT. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà MTN, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bà VTTT: Không bổ sung gì thêm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:

Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bà MTN làm trong hạn luật định nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận về mặt hình thức.

Về việc chấp hành pháp luật: Xét thấy, Thẩm phán chủ toạ phiên toà, các thành viên Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự từ giai đoạn thụ lý đến giai đoạn xét xử phúc thẩm.

Về yêu cầu kháng cáo của bà MTN: Bản án sơ thẩm đã xem xét, đánh giá đầy đủ các chứng cứ và tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà VTTT là có căn cứ, đúng pháp luật. Tại cấp phúc thẩm, bà MTN không cung cấp được chứng cứ nào mới. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của bà MTN và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bà MTN làm trong hạn luật định và đã nộp tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm nên đủ điều kiện để thụ lý và xét xử theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà VTTT khởi kiện bà MTN, yêu cầu giao trả diện tích đất 163,8m2, thuộc các thửa số 540, 541, tờ bản đồ số 46, tọa lạc xã Bình Thạnh Trung, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp và huỷ các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS10671, CS10672 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Tháp cấp cho bà MTN ngày 05/3/2018. Ngược lại, bà MTN cho rằng phần đất tranh chấp là của bà. Bản án sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật “Tranh chấp quyền sử dụng đất và huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” là có căn cứ, phù hợp với các quy định tại khoản 9 Điều 26, Điều 34, điểm a khoản 1 Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Xét kháng cáo của bà MTN, nhận thấy:

[3.1] Về nguồn gốc, quá trình chuyển nhượng và việc đứng tên diện tích đất tranh chấp:

Các đương sự đều thừa nhận và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện, phần đất tranh chấp có nguồn gốc của ông NNT.

Theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 26/9/2010 thì người nhận chuyển nhượng là bà MTN. Ban đầu, bà MTN cho rằng phần đất này do bà mua, nhưng số tiền bao nhiêu, cách thanh toán thế nào thì bà không biết. Tuy nhiên, lời khai của ông NNT thể hiện, khi chuyển nhượng ông trực tiếp giao dịch, nhận tiền từ ông MVT; bên nhận chuyển nhượng không trực tiếp ký vào hợp đồng; có nghe ông MVT nói nhờ em ruột là bà MTN đứng tên giùm. Điều này cũng phù hợp với kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp rằng, chữ ký dạng chữ viết Nguyệt trên hợp đồng chuyển nhượng không phải của bà MTN. Mặt khác, tại Biên bản hòa giải của Ủy ban nhân dân xã Bình Thạnh Trung ngày 08/8/2018 (bút lục 14), bà MTN trình bày rằng số tiền mua 163,8m2 đất là của ông MVT đưa cho bà. Ngoài ra, các thủ tục giấy tờ trong các giai đoạn biến động như: chuyển mục đích sử dụng, cấp đổi giấy đều do bên ông MVT tự ký tên bà MTN, chỉ có thủ tục tách thửa thì ông MVT làm bà MTN có ký tên; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ khi được cấp đều do bên ông MVT bà VTTT giữ, đến sau khi tách thửa thì bà MTN nhận giấy và giữ luôn đến nay; đất không có ai sử dụng. Các tài liệu chứng cứ vừa nêu có đủ căn cứ pháp lý để xác định rằng, phần đất tranh chấp do ông MVT mua của ông NNT, nhờ bà MTN đứng tên trên hợp đồng và trên giấy chứng nhận. Do đó, việc bà VTTT khởi kiện yêu cầu bà MTN trả lại diện tích đất tranh chấp là có căn cứ.

[3.2] Việc ông PNT là người đại diện hợp pháp của bà MTN và Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà MTN cho rằng biên bản hoà giải ngày 08/8/2017 của UBND xã Bình Thạnh Trung không có giá trị pháp lý là không có căn cứ để chấp nhận. Bởi, biên bản hoà giải viết tay là đúng thẩm quyền, đúng thành phần tiến hành hoà giải, có đủ chữ ký của những người tham gia hoà giải…đúng quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 202 Luật Đất đai 2013. Việc biên bản đánh máy không có chữ ký của các đương sự ở từng trang không làm mất đi giá trị của biên bản, vì thành phần, nội dung giữa bản viết tay và bản đánh máy hoàn toàn giống nhau.

[4] Ông MVT (chết tháng 4/2015) là chồng của bà VTTT, cha mẹ ông MVT chết trước ông MVT. Hàng thừa kế thứ nhất của ông MVT gồm bà VTTT, hai người con là anh MHT và chị MKN. Các đồng thừa kế không tranh chấp về thừa kế, cùng thống nhất giao quyền sử dụng đất này cho anh MHT làm chủ sử dụng. Nên Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét giải quyết về thừa kế, giao phần đất này cho anh MHT đứng tên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[5] Về yêu cầu huỷ các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Như phần trên đã nhận định phần đất tranh chấp là của ông MVT mua của ông NNT và nhờ bà MTN đứng tên. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm tuyên huỷ các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS10671, CS10672 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Tháp cấp cho bà MTN ngày 05/3/2018 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[6] Tại phiên toà phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của bà MTN không xuất trình được chứng cứ nào mới, do đó kháng cáo của bà MTN là không có căn cứ để chấp nhận. Cần giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên toà.

[7] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà MTN phải nộp án phí dân sự phúc thẩm theo luật định.

[8] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo luật định.

Bởi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Không chấp nhận kháng cáo của bà MTN. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2021/DS-ST, ngày 22/4/2021 của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Tháp.

Căn cứ vào khoản 9 Điều 26, Điều 34, điểm a khoản 1 Điều 37, Điều 147, Điều 157 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 26, điểm k khoản 4, Điều 95, Điều 99, Điều 100, các khoản 2, 3, 4 Điều 202, khoản 1 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án,

[1] Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà VTTT.

[1.1] Xác định thửa đất số 540, diện tích 81,9m2 và thửa số 541, diện tích 81,9m2, cùng tờ bản đồ số 46, toạ lạc tại xã Bình Thạnh Trung, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp thuộc quyền sử dụng của anh MHT (vị trí, hình thể, mốc giới, số đo các cạnh được thể hiện theo Sơ đồ đo đạc số TĐ: 02-2019 ngày 25/02/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Lấp Vò).

[1.2] Hủy các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS10671, CS10672 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Tháp cấp cho bà MTN ngày 05/3/2018.

[2] Anh MHT có trách nhiệm liên hệ với Cơ quan nhà nước có thẩm quyền để kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất, để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với diện tích đất được nêu tại mục [1.1] theo quy định của pháp luật.

[3] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà MTN phải nộp 300.000 (ba trăm ngàn) đồng. Được trừ vào 300.000 (ba trăm ngàn) đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp, theo biên lai thu số 6168 ngày 07/5/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Tháp. Bà MTN đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo luật định.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

[5] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 350/2022/DS-PT

Số hiệu:350/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 27/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về