Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 153/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 153/2023/DS-PT NGÀY 28/03/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ TÀI SẢN GẮN LIỀN VỚI ĐẤT

Ngày 28 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 419/2022/TLPT-DS ngày 03 tháng 10 năm 2022 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất”.Do Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2022/DS-ST ngày 27 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 222/2023/QĐPT-DS ngày 20 tháng 02 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1957 (vắng mặt) Địa chỉ: Số 12315 HF DR-Houston TX-77099.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1963 (có mặt);

Địa chỉ: 605 Phạm Thế H, Phường 4, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh (Văn bản ủy quyền ngày 27/6/2017 và ngày 22/01/2019).

- Bị đơn: Ông Trần Văn T, sinh năm 1962 (có mặt) Địa chỉ: Số 77, đường Đ1, tổ 13, khu phố 3, phường M, thị xã B, tỉnh Bình Dương.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Luật sư Nguyễn Văn H1 - Luật sư thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bình Dương (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Ung Thị M1, sinh năm 1960 (xin vắng mặt) Địa chỉ: Số 77, đường Đ1 tổ 13, khu phố 3, phường M, thị xã B, tỉnh Bình Dương;

- Người kháng cáo: Bị đơn là ông Trần Văn T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị P (do ông Nguyễn Văn N là người đại diện) trình bày:

Năm 2005, bà Nguyễn Thị P có nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất diện tích 1.000m2 của ông Trần Văn X (tên khác S, đã chết), với giá 50.000.000 đồng. Bà P và ông X đã tiến hành các thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo đúng quy định của pháp luật, vì thế ngày 05/5/2006, bà P được Ủy ban nhân dân huyện (nay là thị xã) Bến Cát cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00208, kèm theo Quyết định số 2031/QĐ-UBND ngày 05/5/2006 của Ủy ban nhân dân thị xã Bến Cát về việc giao đất và cho phép bà P chuyển mục đích sử dụng đất.

Tuy nhiên, do phần đất mà bà P đã được cấp giấy chứng nhận có diện tích 1.000m2 tiếp giáp với mặt tiền đường, trong đó có 50m2 đất thổ cư, 840m2 là đất trồng cây lâu năm và 110m2 nằm trong hàng lang bảo vệ đường bộ cho nên bà P để đất trống sau này chờ quy hoạch của Nhà nước hoàn tất rồi bà P mới tiến hành xây dựng nhà ở.

Do sinh sống và làm ăn ở Thành phố Hồ Chí Minh nên bà P không có điều kiện về thời gian để chăm sóc, quản lý phần diện tích đất nêu trên, khi nhận chuyển nhượng phần đất trên từ ông X thì hai bên thỏa thuận chỉ cắm mốc để phân chia ranh đất chứ không tiến hành rào lại vì thời điểm đó ông X còn sống, đồng thời là người đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi ông X chết, ông Trần Văn T đã ngang nhiên lấn chiếm phần đất của bà P đo đạc thực tế diện tích 935,5m2, thuộc thửa đất 641, tờ bản đồ số 52, tọa lạc tại phường Mỹ Phước, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương để trồng cây cao su.

Sau khi phát hiện, bà P có yêu cầu ông T di dời hoặc cắt bỏ cây cao su để trả lại hiện trạng diện tích đất như ban đầu cho bà P nhưng ông T không thực hiện. Vì vậy, bà P khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương giải quyết:

- Buộc ông Trần Văn T phải trả lại cho bà P phần đất lấn chiếm diện tích 935,5m2, thuộc thửa đất 641, tờ bản đồ số 52, tọa lạc tại phường Mỹ Phước, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00208 do Ủy ban nhân dân huyện (nay là thị xã) Bến Cát cấp ngày 05/5/2006 mang tên bà Nguyễn Thị P.

- Yêu cầu ông T tự chặt bỏ hoặc thanh lý toàn bộ cây cao su đã trồng và các tài sản khác để trả lại nguyên hiện trạng ban đầu đối với phần đất mà ông Trần Văn T đang lấn chiếm của bà P.

Bị đơn ông Trần Văn T trình bày:

Năm 2000, Ông Trần Văn T có sang nhượng một phần đất của cha ruột là ông Trần Văn X (tên khác S), phần đất tọa lạc tại khu phố 3, phường Mỹ Phước, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Phần đất có chiều ngang giáp mặt đường 7B là 12m, chiều dài 100m, mặt hậu 25,5m, tổng diện tích 1.850m2, giá chuyển nhượng là 25 chỉ vàng 24k, ông T đã giao đủ vàng vào ngày 09/4/2000 và nhận phần đất chuyển nhượng của ông S nói trên. Ông T tiến hành lập hàng rào bằng cọc bê tông, kẽm gai và trồng điều, cọc bê tông hiện nay vẫn còn. Sau đó vào năm 2005, ông T trồng xen cao su. Đến năm 2008, ông T chặt bỏ cây điều, giữ lại cây cao su, hiện nay vẫn còn. Phần đất ông X bán cho bà P là phần đất ngoài hàng rào kẽm gai của ông T. Diện tích đất bà P hiện đang tranh chấp với ông T nằm hoàn toàn trong phần đất 1.850m2 của ông T.

Vào năm 2010, ông T đang khai thác mủ cao su trên phần đất tranh chấp trên thì bà Nguyễn Thị P ủy quyền cho bà Nguyễn Thị L, kiện ông T ra phường Mỹ Phước, Ủy ban nhân dân phường Mỹ Phước tổ chức hòa giải nhưng không thành nên chuyển lên Tòa án nhân dân huyện Bến Cát, rồi đến Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương nhưng sau đó rút đơn khởi kiện.

Lý do ông T chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, là do khi ông X được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 11/7/2005 thì sau đó ông T có cầm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông X đến Ủy ban nhân dân phường Mỹ Phước để tách thửa thì Ủy ban nhân dân phường Mỹ Phước trả lời phần đất đó thuộc Bộ Quốc phòng quy hoạch không được tách thửa nên ông X viết lại giấy tay bán đất cho ông T và phải ghi lại ngày 09/4/2000 trong đó có ghi số thửa và tờ bản đồ.

Vì vậy, ông T không chấp nhận yêu cầu của bà P; ông T phản tố yêu cầu bà P trả lại cho ông T diện tích đất 1.015m2 mà bà P đã lấn chiếm.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Ung Thị M1 trình bày: Bà Ung Thị M1 là vợ của ông Trần Văn T có đăng ký kết hôn vào năm 1979. Năm 2000, vợ chồng bà M1 mua của cha chồng (ông X) phần đất 1.850m2, trong đó có phần đất đang tranh chấp, việc mua đất có lập giấy tay. Sau đó, vợ chồng bà M1, ông T canh tác trên phần đất này, đến năm 2005 thì trồng cây cao su cho đến nay. Cây cao su trên đất là tài sản chung của vợ chồng bà M1, ông T. Bà M1 không chấp nhận yêu cầu của bà P. Bà M1 thống nhất yêu cầu phản tố của ông T.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2022/DS-ST ngày 27 tháng 6 năm 2022 (được sửa chữa, bổ sung theo Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 21/2022/QĐ-SCBSBA ngày 15/8/2022) của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã quyết định:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị P đối với bị đơn ông Trần Văn T về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.

2. Buộc vợ chồng ông Trần Văn T, bà Ung Thị M1 trả quyền sử dụng đất diện tích 935,5 m2 thuộc thửa 641, tờ bản đồ 52, phường Mỹ Phước, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương cho nguyên đơn bà Nguyễn Thị P (có bản vẽ khu đất kèm theo).

3. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị P đối với bị đơn ông Trần Văn T về việc buộc ông T tự chặt bỏ hoặc thanh lý toàn bộ cây cao su đã trồng trên diện tích đất 935,5m2 thuộc thửa 641, tờ bản đồ 52, phường Mỹ Phước, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

4. Buộc nguyên đơn bà Nguyễn Thị P bồi thường cho vợ chồng ông Trần Văn T, bà Ung Thị M1 giá trị 64 cây cao su là 30.656.000 đồng.

Sau khi bồi thường xong giá trị 64 cây cao su cho vợ chồng ông Trần Văn T, bà Ung Thị M1 thì bà Nguyễn Thị P được quyền sử dụng (định đoạt) 64 cây cao su này.

Trường hợp trên thửa đất 641, tờ bản đồ 52, phường Mỹ Phước, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương của bà P có xây dựng công trình, trồng cây, hay tài sản khác do ông T, bà M1 tạo lập sau ngày xem xét, thẩm định tại chỗ (ngày 09/9/2020) thì buộc ông T, bà M1 tự tháo dỡ, di dời những tài sản này. Trường hợp ông T, bà M1 không tự nguyện tháo dỡ, di dời thì Chi cục Thi hành dân sự tiến hành thi hành án và chi phí thi hành án do ông T, bà M1 phải chịu.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

5. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Trần Văn T đối với bà Nguyễn Thị P về việc tranh chấp quyền sử dụng đất diện tích đất 1.015m2, tọa lạc tại phường Mỹ Phước, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương (trong đó có phần đất 935,5m2 thuộc thửa 641, tờ bản đồ 52, phường Mỹ Phước, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương cấp cho bà P).

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo của đương sự.

Ngày 27/6/2022 bị đơn ông Trần Văn T kháng cáo bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị đơn là ông Trần Văn T vẫn giữ kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại với lý do Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập đầy đủ chứng cứ và đưa thiếu người tham gia tố tụng.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn là Luật sư Nguyễn Văn H1 phát biểu ý kiến: tại biên bản hòa giải ngày 13/01/2010, ông Trần Văn L1 là em ông T trình bày ông Lý đứng ra bán đất của ông Trần Văn X cho bà Nguyễn Thị P bằng giấy tay nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa ông Lý và những người thừa kế của ông X vào tham gia tố tụng là vi phạm thủ tục tố tụng. Mặt khác, theo bản vẽ hiện trạng thể hiện phần đất của bà P chồng lên phần đất ông T nhưng cấp sơ thẩm không thẩm định lại; bản vẽ không thể hiện điểm mốc trong khi nguyên đơn thừa nhận khi mua đất thì ông X chưa được cấp giấy chứng nhận nên các bên chỉ thỏa thuận theo hiện trạng, vấn đề này cũng chưa được làm rõ. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.

Nguyên đơn là bà Nguyễn Thị P (có ông Nguyễn Văn N đại diện theo ủy quyền) không đồng ý yêu cầu kháng cáo của bị đơn, yêu cầu Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự. Những người tham gia tố tụng đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định của pháp luật.

- Về nội dung: bản án của Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử có căn cứ và đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn là ông Trần Văn T kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ nào mới chứng minh nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tòa án triệu tập hợp lệ, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Ung Thị M1 xin vắng mặt. Căn cứ Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt đương sự này.

[2] Hồ sơ vụ án thể hiện, phần đất đang tranh chấp theo đo đạc thực tế có diện tích 935,5m2 thuộc thửa 641, tờ bản đồ số 52, phường Mỹ Phước, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương có nguồn gốc nằm trong diện tích 11.081m2 thuộc thửa 438, tờ bản đồ 52 do ông Trần Văn X tạo lập vào năm 1976. Ngày 11/7/2005, Uỷ ban nhân dân huyện Bến Cát đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông X đối với diện tích 11.081m2 nêu trên. Các đương sự thống nhất khai nhận vợ chồng ông Trần Văn X bà Nguyễn Thị G có 09 người con gồm: Trần Văn T, Trần Thị T1, Trần Thị T2, Trần Thị T3, Trần Văn N1, Trần Văn P1, Trần Văn Đ, Trần Văn N2 và Trần Văn L1. Hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và kết quả xác minh tại Công an thị xã Bến Cát, thể hiện từ ngày 17/8/2004 đến tháng 7/2005 hộ ông X gồm các con bà Trần Thị T1, ông Trần Văn Đ, ông Trần Văn L1, ông Trần Thanh N1 (tách hộ khẩu riêng từ ngày 24/11/2004), ông Trần Văn P1 (tách hộ khẩu ngày 26/5/2005). Tại các biên bản lấy lời khai của ông N1, bà T3, bà N2, ông L1 thống nhất trình bày nguồn gốc thửa đất 438, tờ bản đồ 52, khu phố 5, thị trấn Mỹ Phước diện tích 11.081m2, là do ông X, bà G khai hoang từ năm 1976, không có sự đóng góp của các con. Sau khi bà G chết, ông X kê khai đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông Ngàn, ông T3, bà N2, ông L1 xác định không có quyền lợi, nghĩa vụ gì về việc tranh chấp giữa bà P với ông T nên tự nguyện yêu cầu không đưa họ vào tham gia tố tụng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm không đưa những người con của ông X bà G vào tham gia tố tụng là có căn cứ.

[3] Theo nội dung nêu tại mục [2] thì phần diện tích đất 11.081m2 là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của ông X, bà G. Do vậy, ông X có quyền định đoạt ½ diện tích đất 11.081m2 là 5.540,5m2.

[4] Xét Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông X cho bà P:

- Về hình thức: Hợp đồng được Ủy ban nhân dân thị trấn Mỹ Phước chứng thực đúng quy định của pháp luật.

- Về nội dung: Ông Xét chuyển nhượng cho bà P quyền sử dụng phần đất có diện tích 1.000m2 (có 50m2 đất ở tại đô thị; 840m2 đất trồng cây hàng năm và 110m2 đất hành lang bảo vệ đường bộ).

Phần diện tích đất chuyển nhượng cho bà P không vượt quá ½ diện tích đất thuộc quyền sử dụng của ông X theo nội dung tại mục [3]. Do vậy, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 29/11/2005 đúng về nội dung và hình thức nên được công nhận hiệu lực. Ngày 05/5/2006, Ủy ban nhân dân huyện (nay là thị xã) Bến Cát ban hành Quyết định số 2031/QĐ-UBND thu hồi diện tích đất 1.000m2 của hộ ông Trần Văn X giao cho bà Nguyễn Thị P (lý do: nhận chuyển nhượng). Bà Nguyễn Thị P được Ủy ban nhân dân huyện (nay là thị xã) Bến Cát, tỉnh Bình Dương cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 799983 (số vào sổ H00208) ngày 05/5/2006, diện tích 1.000m2 thuộc thửa 641, tờ bản đồ 52, thị trấn Mỹ Phước, huyện (nay là thị xã) Bến Cát, tỉnh Bình Dương là đúng quy định của pháp luật.

[5] Ông T cho rằng diện tích đất tranh chấp là phần đất thuộc diện tích 1.850m2 ông T đã nhận chuyển nhượng từ ông X theo tờ “Biên lai sang nhượng đất” lập ngày 09/4/2000.

Xét, theo Kết luận giám định của Phân Viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh giám định đối với chữ ký, chữ viết “Trần Văn X” tại tờ “Biên lai sang nhượng đất” lập ngày 09/4/2000 (do Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát cung cấp) thì chữ ký và chữ viết không phải do ông X ký và viết. Mặt khác, ông X đăng ký kê khai quyền sử dụng đất vào năm 2004; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông X thể hiện phần đất chuyển nhượng cho bà P đúng ranh giới thửa đất, không phạm vào phần đất của ông T thuộc thửa 522. Trong hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông X cho bà P có “Biên bản v/v kiểm tra địa chính và khảo sát hiện trạng diện tích sử dụng đất”. Cuối biên bản này tại phần “người liên ranh” có chữ ký và ghi họ tên Trần Văn T. Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 11/5/2021, ông T không thừa nhận chữ ký “người liên ranh” tại biên bản nêu trên và yêu cầu giám định chữ ký, chữ viết này, nhưng sau đó ông T không thực hiện nên không giám định được. Do đó, lời trình bày của ông T về việc cho rằng có nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất (trong đó phần đất đang tranh chấp) từ ông X là không có cơ sở.

[6] Như vậy, có căn cứ xác định ông T và bà M1 chiếm dụng thửa đất của bà P để trồng cây cao su. Theo kết quả xem xét thẩm định tại chỗ thì hiện nay cây cao su đã lớn không thể di dời. Tại Biên bản định giá tài sản ngày 09/9/2020, xác định trên thửa đất 641 có 64 cây cao su trồng từ năm 2005, giá cây từ 10 năm tuổi đến 20 năm tuổi là 479.000 đồng/01 cây (64 cây là 30.656.000 đồng). Vì vậy, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm buộc bà P bồi thường giá trị cây cao su cho ông T, bà M1. Sau khi bồi thường xong thì bà P được quyền sử dụng 64 cây cao su này là phù hợp.

[7] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn là ông Trần Văn T kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào mới chứng minh nên không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa là có cơ sở chấp nhận.

[8] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[9] Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Trần Văn T, sinh năm 1962 là người cao tuổi nên được miễn theo quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn là ông Trần Văn T; Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2022/DS-ST ngày 27/6/2022 (được sửa chữa, bổ sung theo Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 21/2022/QĐ-SCBSBA ngày 15/8/2022) của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.

Áp dụng các Điều 166 và 170 Luật Đất đai; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị P đối với bị đơn ông Trần Văn T về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.

2. Buộc vợ chồng ông Trần Văn T, bà Ung Thị M1 trả quyền sử dụng đất diện tích 935,5 m2 thuộc thửa 641, tờ bản đồ 52, phường Mỹ Phước, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương cho nguyên đơn bà Nguyễn Thị P (có bản vẽ khu đất kèm theo).

3. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị P đối với bị đơn ông Trần Văn T về việc buộc ông T tự chặt bỏ hoặc thanh lý toàn bộ cây cao su đã trồng trên diện tích đất 935,5m2 thuộc thửa 641, tờ bản đồ 52, phường Mỹ Phước, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

4. Buộc nguyên đơn bà Nguyễn Thị P bồi thường cho vợ chồng ông Trần Văn T, bà Ung Thị M1 giá trị 64 cây cao su là 30.656.000 đồng.

Sau khi bồi thường xong giá trị 64 cây cao su cho vợ chồng ông Trần Văn T, bà Ung Thị M1 thì bà Nguyễn Thị P được quyền sử dụng (định đoạt) 64 cây cao su này.

Trường hợp trên thửa đất 641, tờ bản đồ 52, phường Mỹ Phước, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương của bà P có xây dựng công trình, trồng cây, hay tài sản khác do ông T, bà M1 tạo lập sau ngày xem xét, thẩm định tại chỗ (ngày 09/9/2020) thì buộc ông T, bà M1 tự tháo dỡ, di dời những tài sản này. Trường hợp ông T, bà M1 không tự nguyện tháo dỡ, di dời thì Chi cục Thi hành dân sự tiến hành thi hành án và chi phí thi hành án do ông T, bà M1 phải chịu.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

5. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Trần Văn T đối với bà Nguyễn Thị P về việc tranh chấp quyền sử dụng đất diện tích đất 1.015m2, tọa lạc tại phường Mỹ Phước, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương (trong đó có phần đất 935,5m2 thuộc thửa 641, tờ bản đồ 52, phường Mỹ Phước, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương cấp cho bà P).

6. Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

7. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Trần Văn T được miễn.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

114
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 153/2023/DS-PT

Số hiệu:153/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về