Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 264/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 264/2022/DS-PT NGÀY 27/07/2022 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 27 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 192/2022/TLPT-DS ngày 10 tháng 5 năm 2022 về tranh chấp quyền sử dụng đất và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.Do bản án dân sự sơ thẩm số 16/2022/DS - ST ngày 18 tháng 3 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện TB bị kháng cáo;

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 185/2022/QĐ – PT ngày 01/6/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn:

1.1. Võ Ngọc T,S năm 1973;

1.2. Trần Thị Tuyết H,S năm 1976;

Cùng địa chỉ: Ấp BC, xã BT, huyện TB, tỉnh Đồng Tháp.

2. Bị đơn:

2.1. Lê Thị NgọcS,S năm 1962;

2.2. Phan Thị X,S năm 1933;

Ngưi đại diện theo ủy quyền cho Phan Thị X: Đoàn Văn R,S năm 1979.

Cùng địa chỉ: Ấp BĐ, xã BT, huyện TB, tỉnh Đồng Tháp.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Võ Thị Ngọc T,S năm 1995;

3.2. Võ Ngọc N,S năm 1998;

Người đại diện theo ủy quyền cho Võ Thị Ngọc T, Võ Ngọc N: Võ Ngọc T,S năm: 1973 và Trần Thị Tuyết H,S năm: 1976.

Cùng địa chỉ: Ấp BC, xã BT, huyện TB, tỉnh Đồng Tháp.

3.3. Đoàn Văn R,S năm 1979;

3.4. Đoàn Thị T,S năm 1977;

3.5. Đoàn Thị Mỹ C,S năm 1984;

Người đại diện theo ủy quyền cho Đoàn Thị T, Đoàn Thị Mỹ C: Đoàn Văn R,S năm: 1979.

Cùng địa chỉ: Ấp BĐ, xã BT, huyện TB, tỉnh Đồng Tháp.

3.6. Nguyễn Văn S,S năm 1959;

3.7. Nguyễn Thị H,S năm 1992;

Người đại diện theo ủy quyền cho Nguyễn Văn Sang, Nguyễn Thị Hiền: Lê Thị NgọcS,S năm 1962.

Cùng địa chỉ: Ấp BĐ, xã BT, huyện TB, tỉnh Đồng Tháp.

3.8. Nguyễn Văn N,S năm 1990;

3.9. Lê Chí N,S năm 1986;

3.10. Trịnh Thị L,S năm 1990;

Cùng địa chỉ: Ấp BĐ, xã BT, huyện TB, tỉnh Đồng Tháp.

3.11. Lê Thị T,S năm 1964;

Địa chỉ: Ấp Tấn Long, xã Tấn Mỹ, huyện Chợ Mới, tỉnh An G.

3.12. Lê Thị Ngọc N,S năm 1970;

Địa chỉ: Khóm Tân Đông B, thị trấn TB, huyện TB, tỉnh Đồng Tháp.

3.13. Lê Thị Ngọc Đ,S năm 1972;

Địa chỉ: Ấp Ba, xã An Phong, huyện TB, tỉnh Đồng Tháp.

3.14. Lê Thị Ngọc T,S năm 1974;

Địa chỉ: Ấp BC, xã BT, huyện TB, tỉnh Đồng Tháp.

3.15. Đỗ Trường G,S năm 1981;

Địa chỉ: Ấp BC, xã BT, huyện TB, tỉnh Đồng Tháp.

3.16. Ủy ban nhân dân huyện TB, tỉnh Đồng Tháp;

Người đại diện theo pháp luật: Ông Huỳnh Văn N, chức vụ: Chủ tịch UBND huyện TB, tỉnh Đồng Tháp.

Người đại diện theo ủy quyền cho ông Huỳnh Văn N: Ông Mai Văn Đ, chức vụ: Phó Chủ tịch UBND huyện TB, tỉnh Đồng.

3. Người kháng cáo: Ông Võ Ngọc T, bà Trần Thị Tuyết H là nguyên đơn trong vụ án.

Ông T, bà H, anh R, bàS có mặt tại phiên tòa. Chị T, chị N, chị Đ, chị T, anh N, anh N, chị L, anh G, ông Đ có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản ghi lời khai, biên bản mở phiên họp - hòa giải và tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn ông Võ Ngọc T, bà Trần Thị Tuyết H; đồng thời, ông T, bà H đại diện ủy quyền cho chị Võ Thị Ngọc T, anh Võ Ngọc N trình bày: Nguồn gốc đất thửa 594, tờ bản đồ số 4, diện tích 3.063m2 (Lúa) quyền sử dụng đất cấp ngày 12/8/2011 tại xã BT; do ông bà nhận chuyển Nợng của anh Đỗ Trường G (con bà Phan) vào cuối năm 2010, khi chuyển Nợng anh G có chỉ cho ông bà ranh đất tứ cận N sau:

- Hướng Bắc (mặt tiền) giáp Đường nhựa;

- Hướng Nam (sau hậu) thì giáp đường nước Thủy lợi;

- Hướng Đông giáp ranh đất ông Trần Văn Cột, ông Nguyễn Văn Toàn;

- Hướng Tây giáp ranh đất ông Đỗ Thành Cu.

(Theo sơ đồ xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 14/3/2019).

Khi nhận chuyển Nợng anh G nói “Đất của ông Dự còn lại 63m2; còn cụ X và bàS chỉ cất nhà ở tạm, sau này sẽ chuyển về ở nơi khác do Nhà nước cấp” lúc đó anh G không nói rõ nhà của cụ X, bàS cất trên đất của ai. Khi lập hồ sơ chuyển Nợng thửa số 594, Địa chính xã BT không có đến đo đạc thực tế mà làm thủ tục chuyển hết thửa 594, nay ông bà yêu cầu Tòa án giải quyết cụ thể N sau:

1. Yêu cầu hộ bà Lê Thị NgọcS, anh Lê Chí N liên đới trả tiền giá trị quyền sử dụng đất diện tích 71,7m2 (Mốc 1, 12, 10, 2 về mốc 1) trên đất có căn nhà số 684 của cụ Lê Hữu Dự để lại cho anh N, giá là 60.000.000đ (Sáu mươi triệu đồng).

- Yêu cầu hộ bà Lê Thị NgọcS di dời toàn bộ căn nhà số 754 và mái che (Mốc 12, 11, 9, 10 về mốc 12) để giao trả diện tích 66,1m2 cho ông, bà quản lý sử dụng.

- Yêu cầu hộ bà Lê Thị NgọcS đốn, di dời cây trồng trên phần đất diện tích 129,7m2 (Mốc 11, 4, 3, 9 về mốc 11) gồm: 05 cây xoài, 01 cây trứng cá và 01 cây Gáo để giao trả đất cho ông, bà quản lý sử dụng.

2. Yêu cầu hộ cụ Phan Thị X trả tiền giá trị quyền sử dụng đất diện tích 121,3m2 (Mốc 5, 6, 7, 8 về mốc 5) trên đất có căn nhà số 756 của cụ X, giá là 90.000.000đ (Chín mươi triệu đồng).

- Riêng đối với phần diện tích lối đi 50,6m2 thuộc thửa số 2, tờ bản đồ số 35 theo bản đồ địa chính chính quy (Mốc 4, 5, 8, 3 về mốc 4) do ông bà sang Nợng lại của cụ Lê Hữu Dự (mua bán giấy tay ngày 23/10/2011) thì không có yêu cầu giải quyết, không có tranh chấp.

- Ông T, bà H không thống nhất đối với yêu cầu phản tố của bà Lê Thị NgọcS và cụ Phan Thị X.

Tại phiên tòa ông T, bà H thống nhất không có yêu cầu Tòa án định giá lại quyền sử dụng đất; ông bà yêu cầu Tòa án tiếp tục phiên tòa xét xử theo quy định và thống nhất giữ y mức giá theo biên bản định giá ngày 08/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản huyện TB.

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản ghi lời khai, biên bản mở phiên họp - hòa giải và tại phiên tòa các bị đơn trình bày N sau:

1. Bà Lê Thị NgọcS; đồng thời, bàS đại diện theo ủy quyền cho Nguyễn Văn S, Nguyễn Thị H trình bày: Nguồn gốc đất thửa số 594, tờ bản đồ số 4, diện tích 3.063m2 (Lúa) của cụ Lê Hữu Dự được UBND xã BT cấp khoán vào năm 1985 để làm nhà ở và đất sản xuất (trong đó 63m2 đất ở và 3.000m2 đất lúa); năm 1985 cụ Lê Hữu Dự về cất nhà ở và canh tác phần đất lúa 3.000m2 đến năm 1994 thì được cấp quyền sử dụng đất theo quy định (chung một thửa 594 gồm có đất ở và đất lúa).

Năm 1996 cụ Dự bệnh ung thư, gia đình gặp khó khăn nên chuyển Nợng cho bà Đỗ Thị Phan, phần đất lúa diện tích 3.000m2 x giá 11chỉ/1.000m2 = 33 chỉ vàng 24Kara (có làm giấy tay đề ngày 24/11/1996). Mốc ranh giới được tính từ gốc cây Gáo giáp ông Cu (Mốc 2) thẳng xuống trụ đá ranh (trụ hàng rào giáp ông Cột hiện nay - Mốc 7) thẳng ra sau hậu đất hai bên là bờ đê đất lúa của ông Cu, ông Cột, phía sau hậu đất giáp đường nước Thủy Lợi.

Riêng phần diện tích 63m2 (đất ở) thì cụ Dự không có chuyển Nợng, vì tại thời điểm năm 1996 trên đất đã có 03 căn nhà ở ổn định gồm (nhà cụ Dự, bàS và cụ X).

Đến năm 2011 bà Đỗ Thị Phan qua đời, anh G (con bà Phan) chuyển Nợng 3.000m2 (đất lúa) cho ông T, bà H; sau khi nhận chuyển Nợng 3.000m2 (đất lúa) của anh G, đến ngày 23/10/2011 ông T thỏa thuận mua thêm (của cụ Dự) một phần diện tích đất ở ngang 3,5m x dài (từ mí Đường nhựa thẳng vô tới đất lúa) để làm lối đi và vận chuyển phân bón vào đất lúa.

Năm 2012 cụ Dự qua đời, để lại căn nhà số 684 cho cháu ngoại tên Lê Chí N (con bàS) ở đến nay; phần bàS thì sửa chữa và cất lại nhà mới cặp bên hông nhà cụ Lê Hữu Dự từ năm 2000 và ở ổn định đến nay; hiện nay phần đất giáp nền nhà bàS có trồng 05 cây xoài (đang cho trái), 01 cây gáo và 01 cây trứng cá (04 năm tuổi).

Nng khi anh G và ông T, bà H làm hồ sơ chuyển quyền sử dụng đất thì không có yêu cầu Địa chính xã xuống đo đạc thực tế để tách thửa đất ở còn lại cho hộ gia đình bà, dẫn đến việc ông T làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất trùm lên phần đất ở của hộ bà và hộ cụ X.

Do đó, bà khởi kiện phản tố yêu cầu hộ ông T, bà H tách bộ sang tên quyền sử dụng đất cho hộ bà đứng tên theo quy định, tổng diện tích 267,5m2 thuộc một phần thửa số 594, tờ bản đồ số 4, bản đồ 299 (hiện nay thuộc các thửa số 1, 4, 5 tờ bản đồ số 35, bản đồ địa chính chính quy) trong đó gồm có: anh N 71,7m2; bàS 66,1m2 và phần đất bàS đang trồng cây 129,7m2 (theo sơ đồ xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 14/3/2019). Đồng thời, yêu cầu UBND huyện TB thu hồi điều chỉnh lại diện tích 267,5m2 (nêu trên) cho hộ bà đứng tên theo quy định, vì UBND huyện TB cấp quyền sử dụng đất cho ông T, bà H không đúng đối tượng sử dụng theo quy định.

2. Anh Đoàn Văn R; đồng thời, anh R đại diện ủy quyền cho cụ Phan Thị X, chị Đoàn Thị T, chị Đoàn Thị Mỹ C trình bày: Nguồn gốc đất tranh chấp diện tích 121,3m2 (Mốc 5, 6, 7, 8 về mốc 5) thuộc một phần thửa 594, tờ bản đồ số 4, bản đồ 299 (hiện nay thuộc thửa số 3, tờ bản đồ số 35, bản đồ địa chính chính quy) là của cụ Lê Hữu Dự chuyển Nợng cho anh và cụ X vào năm 2001, khi chuyển Nợng do diện tích ít không tách thửa được, nên hai bên thỏa thuận làm giấy tay ngày 24/8/2001, giá 02 chỉ vàng 24kra; còn thực tế thì anh và cụ X (mẹ anh) đã được cụ Dự cho ở nhờ trên đất trước năm 2001 đến nay, vì cụ X và cụ Dự là vợ chồng chấp nối với nhau.

Năm 1996 cụ Dự bệnh, gia đình gặp khó khăn nên chuyển Nợng cho bà Đỗ Thị Phan phần đất lúa diện tích 3.000m2, mốc ranh giới được tính từ gốc cây Gáo giáp ông Cu (Mốc 2) thẳng xuống trụ đá ranh (trụ hàng rào giáp ông Cột hiện nay - Mốc 7) thẳng ra sau hậu đất hai bên là bờ đê đất lúa của ông Cu, ông Cột, phía sau hậu đất giáp đường nước Thủy Lợi.

Sau khi bà Phan qua đời, năm 2011 anh G chuyển Nợng cho ông T, bà H phần đất lúa diện tích 3.000m2; Nng hai bên làm hồ sơ chuyển Nợng không có yêu cầu Địa chính xã xuống đo đạc thực tế để tách thửa đất ở cho hộ gia đình anh, dẫn đến việc ông T làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất trùm lên phần đất ở của hộ gia đình anh và của hộ bàS.

Do đó, nay anh khởi kiện phản tố yêu cầu hộ ông T, bà H liên đới tách bộ sang tên quyền sử dụng đất cho hộ anh đứng tên theo quy định; đồng thời, yêu cầu UBND huyện TB thu hồi điều chỉnh lại diện tích 121,3m2 thuộc một phần thửa số 594, tờ bản đồ số 4, bản đồ 299 (hiện nay thuộc thửa số 3, tờ bản đồ số 35, bản đồ địa chính chính quy) cho hộ anh đứng tên theo quy định, vì UBND huyện TB cấp quyền sử dụng đất cho ông T, bà H không đúng đối tượng sử dụng theo quy định.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, trình bày N sau:

1. Ủy ban nhân dân huyện TB (có đơn xin vắng), Nng có văn bản trình bày; tại Công văn số 544/UBND-NC ngày 10/6/2021 của UBND huyện TB cung cấp thông tin cho Tòa án, N sau:

Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH00850, cấp ngày 12/8/2011 cho ông Võ Ngọc T, bà Trần Thị Tuyết H, thửa số 594, tờ bản đồ số 4, diện tích 3.063m2 đất trồng lúa, tại xã BT, huyện TB theo Hợp đồng chuyển Nợng quyền sử dụng đất, theo trình tự, thủ tục tại thời điểm năm 2011.

Khi thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T, bà H đây là thủ tục Hợp đồng chuyển Nợng quyền sử dụng đất, không có xem xét, thẩm định tại chỗ.

2. Chị Lê Thị Tố, chị Lê Thị Ngọc N, chị Lê Thị Ngọc Đ, chị Lê Thị Ngọc T, anh Nguyễn Văn N, anh Lê Chí N, chị Trịnh Thị L cùng có đơn xin vắng mặt, Nng có văn bản trình bày ý kiến: Phần đất cụ Phan Thị X đang cất nhà ở là của cụ Lê Hữu Dự đã bán cho cụ X sử dụng ổn định, nên không có yêu cầu Tòa án giải quyết (không có tranh chấp với cụ X).

Đối với phần đất bàS và anh N đang ở và sử dụng là của cụ Dự để lại, bàS đã ở trên đất từ năm 2000 đến nay, anh N thì sống chung với cụ Dự từ nhỏ đến khi cụ Dự qua đời; do đó, thống nhất cho bàS và anh N tiếp tục quản lý sử dụng phần đất theo hiện trạng từ trước đến nay, không có yêu cầu Tòa án giải quyết gì thêm.

3. Anh Đỗ Trường G (có đơn xin vắng) Nng có văn bản trình bày ý kiến: Vào cuối năm 2010 anh thỏa thuận chuyển Nợng cho ông T, bà H phần đất lúa diện tích 3.000m2 (phần đất do bà Đỗ Thị Phan nhận chuyển Nợng của cụ Lê Hữu Dự) tứ cận N sau:

Hướng Đông giáp (bờ đê đất lúa) ông Trần Văn Cột; Hướng Tây giáp (bờ đê đất lúa) ông Đỗ Thành Cu;

Hướng Nam giáp đường nước Thủy lợi (mốc 13 trụ đá và mốc 14 trụ đá); Hướng Bắc giáp phần đất ở của cụ Lê Hữu Dự (mốc 2 gốc gáo; mốc 8 trụ đá ranh; mốc 7 trụ rào ranh giáp ông Cột).

(Theo Sơ đồ xem xét thẩm định tại chỗ ngày 14/3/2019 của Tòa án nhân dân huyện TB).

Nng khi lập thủ tục chuyển Nợng quyền sử dụng đất hai bên không có yêu cầu Địa chính xã BT đến xem xét, thẩm định đo đạc thực tế để tách diện tích đất ở (thuộc một phần thửa 594 còn lại) cho hộ cụ Dự, bàS và cụ X, dẫn đến việc ông T, bà H làm thủ tục chuyển Nợng quyền sử dụng đất trùm lên phần đất ở của hộ gia đình cụ Lê Hữu Dự, bà Lê Thị NgọcS và cụ Phan Thị X.

Khi chuyển Nợng anh có nói rõ với ông T, bà H là phần đất ở cặp lộ làng đang có nhà ở của cụ Dự, cụ X và bàS là không có chuyển Nợng, còn quyền quản lý sử dụng của cụ Lê Hữu Dự.

Tại quyết định của bản án dân sự sơ thẩm số 16/2022/DS-ST ngày 18 tháng 3 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện TB đã xử:

1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của hộ ông Võ Ngọc T, bà Trần Thị Tuyết H; hộ ông T, bà H gồm có các thành viên: Võ Ngọc T, Trần Thị Tuyết H, Võ Thị Ngọc Thùy, Võ Ngọc Nam (sau đây gọi chung là hộ ông T, bà H) các vấn đề cụ thể sau:

1.1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của hộ ông T, bà H về việc yêu cầu hộ bà Lê Thị NgọcS; hộ bàS gồm các thành viên: Lê Thị NgọcS, Nguyễn Văn Sang, Nguyễn Thị Hiền, Nguyễn Văn N, Lê Chí N, Trịnh Thị L, Lê Thị Tố, Lê Thị Ngọc N, Lê Thị Ngọc Đ, Lê Thị Ngọc T (sau đây gọi chung là hộ bàS) liên đới trả tiền giá trị quyền sử dụng đất diện tích 71,7m2 (Mốc 1, 12, 10, 2 về mốc 1) trên đất có căn nhà số 684 của cụ Lê Hữu Dự để lại cho anh Lê Chí N, là 60.000.000đ (Sáu mươi triệu đồng).

1.2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của hộ ông T, bà H; về việc yêu cầu hộ bà Lê Thị NgọcS di dời toàn bộ căn nhà số 754 và mái che (Mốc 12, 11, 9, 10 về mốc 12) để giao trả diện tích 66,1m2 cho ông, bà quản lý sử dụng.

1.3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của hộ ông T, bà H; về việc yêu cầu hộ bà Lê Thị NgọcS đốn, di dời toàn bộ cây trồng trên đất, diện tích 129,7m2 (Mốc 11, 4, 3, 9 về mốc 11) gồm: 05 cây xoài, 01 cây trứng cá và 01 cây gáo để giao trả đất cho ông, bà quản lý sử dụng.

1.4. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của hộ ông T, bà H; về việc yêu cầu hộ cụ Phan Thị X; hộ cụ X gồm các thành viên: Phan Thị X, Đòan Văn R, Đoàn Thị T, Đoàn Thị Mỹ C (sau đây gọi chung là hộ cụ X) liên đới trả tiền giá trị quyền sử dụng đất diện tích 121,3m2 (Mốc 5, 6, 7, 8 về mốc 5) trên đất có căn nhà số 756 của cụ X, là 90.000.000đ (Chín mươi triệu đồng).

(Theo sơ đồ xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 14/3/2019 của Tòa án nhân dân huyện TB).

2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của hộ bà Lê Thị NgọcS, buộc hộ ông Võ Ngọc T, bà Trần Thị Tuyết H liên đới chuyển quyền sử dụng đất cho hộ bà Lê Thị NgọcS đứng tên quyền sử dụng đất theo quy định, tổng diện tích 267,5m2 thuộc một phần thửa số 594, tờ bản đồ số 4, bản đồ 299 (hiện nay thuộc các thửa số 1, 4, 5 tờ bản đồ số 35, bản đồ địa chính chính quy) quyền sử dụng đất cấp ngày 12/8/2011 tên Võ Ngọc T, Trần Thị Tuyết H – tại ấp BĐ, xã BT, huyện TB, tỉnh Đồng Tháp gồm có: Ô số 1 diện tích 71,7m2 gồm các mốc (mốc 1, 12, 10, 2 về mốc 1); Ô số 2 diện tích 66,1m2 gồm các mốc (mốc 12, 11, 9, 10 về mốc 12); Ô số 3 diện tích 129, 7m2 gồm các mốc (mốc 11, 4, 3, 9 về mốc 11).

3. Chấp nhận yêu cầu phản tố của hộ cụ Phan Thị X, buộc hộ ông Võ Ngọc T, bà Trần Thị Tuyết H liên đới chuyển quyền sử dụng đất cho hộ cụ Phan Thị X đứng tên quyền sử dụng đất theo quy định, diện tích 121,3m2 (mốc 5, 6, 7, 8 về mốc 5) thuộc một phần thửa số 594, tờ bản đồ số 4, bản đồ 299 (hiện nay thuộc các thửa số 3 tờ bản đồ số 35, bản đồ địa chính chính quy) quyền sử dụng đất cấp ngày 12/8/2011 tên Võ Ngọc T, Trần Thị Tuyết H – tại ấp BĐ, xã BT, huyện TB, tỉnh Đồng Tháp.

(Theo sơ đồ xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 14/3/2019 của Tòa án nhân dân huyện TB).

4. Đề nghị các Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và UBND huyện TB, tỉnh Đồng Tháp thu hồi điều chỉnh lại diện tích 388,8m2 thuộc một phần thửa số 594, tờ bản đồ số 4, bản đồ 299 (hiện nay thuộc các thửa số 1, 4, 5, 3 tờ bản đồ số 35, bản đồ địa chính chính quy) quyền sử dụng đất cấp ngày 12/8/2011 tên Võ Ngọc T, Trần Thị Tuyết H – tại ấp BĐ, xã BT, huyện TB, tỉnh Đồng Tháp để cấp quyền sử dụng đất cho (hộ bà Lê Thị NgọcS diện tích 267,5m2 và hộ cụ Phan Thị X diện tích 121,3m2) đứng tên theo quy định.

Hộ bà Lê Thị NgọcS và hộ cụ Phan Thị X được đến Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, để yêu cầu điều chỉnh lại quyền sử dụng đất và đăng ký quyền sử dụng đất (nêu trên) theo quy định.

5. Về chi phí xem xét thẩm định và định giá tài sản Buộc hộ ông T, bà H chịu 3.434.000đ (Ba triệu bốn trăm ba mươi bốn nghìn đồng) số tiền này ông T, bà H đã nộp và chi xong.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, thời hạn kháng cáo của các đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm ngày 22/3/2022 ông Võ Ngọc T và bà Trần Thị Tuyết H kháng cáo yêu cầu xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm số: 16/2022/DS- ST ngày 18 tháng 3 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện TB, tỉnh Đồng Tháp. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Võ Ngọc T, Trần Thị Tuyết H, cụ thể N sau:

1. Buộc Lê Chí N, Lê Thị Ngọc S liên đới trả tiền giá trị quyền sử dụng đất diện tích 71,7m2 (Mốc 1, 12, 10, 2 về mốc 1) trên đất có căn nhà số 684 của cụ Lê Hữu Dự để lại cho Lê Chí N, giá là 60.000.000 đồng (Sáu mươi triệu đồng).

2. Buộc Lê Thị NgọcS di dời toàn bộ căn nhà số 754 và mái che (Mốc 12, 11, 9, 10 về mốc 12) để giao trả diện tích 66,1m2 cho Võ Ngọc T, Trần Thị Tuyết H quản lý sử dụng.

3. Buộc Lê Thị NgọcS đốn, di dời cây trồng trên phần đất diện tích 129,7m2 (Mốc 11, 4, 3, 9 về mốc 11) gồm: 05 cây xoài, 01 cây trứng cá và 01 cây gáo để giao trả đất cho Võ Ngọc T, Trần Thị Tuyết H quản lý sử dụng.

4. Buộc Phan Thị X trả tiền giá trị quyền sử dụng đất diện tích 121,3m2 (Mốc 5, 6, 7, 8 về mốc 5) trên đất có căn nhà số 756 của cụ X, giá là 90.000.000 đồng (Chín mươi triệu đồng).

5. Yêu cầu không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn.

- Tại phiên tòa cấp phúc thẩm Ông Võ Ngọc T và bà Trần Thị Tuyết H giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; Hộ Lê Thị NgọcS và hộ bà Phan Thị X không đồng ý theo yêu cầu kháng cáo của ông Thạnh, bà Hằng; đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu + Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án và quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán thụ lý giải quyết vụ án đúng các quy định pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Hội đồng xét xử phúc thẩm đã tiến hành đúng trình tự thủ tục tố tụng theo quy định pháp luật. Các đương sự chấp hành tốt nội quy phiên tòa.

+ Về nội dung:

Nhận thấy, năm 1985 cụ Dự được Nhà nước cấp khoáng diện tích 3.063m2 đất, trong đó 63m2 đất ở và 3.000m2 đất lúa, năm 2994 được cấp giấy chứng nhận thửa 594, các bị đơn cho rằng năm 1996 cụ Dự bán cho bà Phan phần đất lúa 3.000m2, không có bán phần đất thổ vì đã có 3 căn nhà của cụ Dự bàS và cụ Xệ. Quá trình giải quyết vụ án anh G cũng thừa nhận, năm 1996 bà Đỗ Thị Phan có nhận chuyển Nợng của cụ Dự phần đất lúa 3.000m2 đối chiếu với sơ đồ tranh chấp là từ mốc 2 qua mốc 7 và chạy thẳng đến đầu thủy lợi, đến năm 2011 anh G chuyển Nợng phần đất này lại cho ông T bà H, điều này cũng phù hợp với lời khai của những người làm chứng là ông Cu ông Cột. Ông T cho rằng đất tranh chấp là mua của anh G Nng theo Tờ mua bán đất ngày 23/10/2011, được ông T bà H xác định năm 2011 có thỏa thuận mua lại một phần ở của cụ Dự (1 phần của đất đang tranh chấp) để làm lối đi vào đất lúa có chiều ngang 3,5m dài 14,52m (đối chiếu sơ đồ là mốc 4, 5, 8, 3) cho thấy lời trình bày của ông T là không đúng. Mặt khác, việc chuyển Nợng quyền sử dụng đất có làm hợp đồng theo quy định Nng khi làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho ông T thì cơ quan chuyên môn cũng không có đo đạc thực tế. Theo công văn số 505 ngày 25/12/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện TB, thì đối chiếu thửa 594, tờ bản đồ số 4 qua hệ thống bản đồ chính quy là thuộc thửa đất số 1, 2, 3, 4, 5 tờ bản đồ số 35 và thửa 633 tờ bản đồ số 5, N vậy có căn cứ xác định hiện nay phần đất ông T bà H đang tranh chấp là thuộc các thửa 1, 2, 3, 4, 5 tờ bản đồ số 35; còn phần đất lúa diện tích 3.000m2 ông T bà Hăng đang canh tác là thuộc thửa 633, tờ bản đồ số 5 giáp ranh với các thửa đất số 1, 2, 3, 4, 5 nêu trên.

Từ những phân tích, cho thấy ông T bà H chỉ nhận chuyển Nợng phần đất tại các mốc 2, 7, 13, 14 về 2. Do đó, ông T bà H yêu cầu hộ bàS, anh N trả giá trị 71,7m2, di dời toàn bộ căn nhà số 754, mái che trả 66,1m2 đất; di dời cây trồng trả 129,7m2 đất và yêu cầu hộ cụ X trả giá trị 121,3m2 là không có căn cứ chấp nhận.

Cấp sơ thẩm xét xử là có căn cứ, ông T bà H kháng cáo không có căn cứ và cũng không cung cấp chứng gì mới nên không chấp nhận.

Bởi các lẽ trên, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông T bà H, căn cứ khoản 1 Điều 308 BL TTDS tuyên xử: Giữ nguyên bản án số 16/2022/DS-ST ngày 18/3/2022 của Tòa án nhân dân huyện TB.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu và chứng cứ có trong hồ sơ, được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa và lời phát biểu của đại diện Viện kiểm sát:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Ngày 22/3/20225 ông Võ Ngọc T và bà Trần Thị Tuyết H kháng cáo yêu cầu xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm số: 16/2022/DS-ST ngày 18 tháng 3 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện TB, tỉnh Đồng Tháp là trong hạn luật định nên được xem là hợp lệ.

[2] Xét Võ Ngọc T, Trần Thị Tuyết H yêu cầu xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm số: 16/2022/DS-ST ngày 18 tháng 3 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện TB, tỉnh Đồng Tháp. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Võ Ngọc T, Trần Thị Tuyết H, cụ thể N sau:

1. Buộc Lê Chí N, Lê Thị NgọcS liên đới trả tiền giá trị quyền sử dụng đất diện tích 71,7m2 (Mốc 1, 12, 10, 2 về mốc 1) trên đất có căn nhà số 684 của cụ Lê Hữu Dự để lại cho Lê Chí N, giá là 60.000.000 đồng (Sáu mươi triệu đồng).

2. Buộc Lê Thị NgọcS di dời toàn bộ căn nhà số 754 và mái che (Mốc 12, 11, 9, 10 về mốc 12) để giao trả diện tích 66,1m2 cho Võ Ngọc T, Trần Thị Tuyết H quản lý sử dụng.

3. Buộc Lê Thị NgọcS đốn, di dời cây trồng trên phần đất diện tích 129,7m2 (Mốc 11, 4, 3, 9 về mốc 11) gồm: 05 cây xoài, 01 cây trứng cá và 01 cây gáo để giao trả đất cho Võ Ngọc T, Trần Thị Tuyết H quản lý sử dụng.

4. Buộc Phan Thị X trả tiền giá trị quyền sử dụng đất diện tích 121,3m2 (Mốc 5, 6, 7, 8 về mốc 5) trên đất có căn nhà số 756 của cụ X, giá là 90.000.000 đồng (Chín mươi triệu đồng).

5. Yêu cầu không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn. Hội đồng xét xử xét thấy:

Nguồn gốc đất thửa số 594, tờ bản đồ số 4, bản đồ 299 (hiện nay thuộc các thửa số 1, 2, 3, 4, 5 tờ bản đồ số 35 và thửa 633 tờ bản đồ số 5, bản đồ địa chính chính quy) là của cụ Lê Hữu Dự được Nhà nước cấp khoán vào năm 1985 diện tích 3.063m2 (trong đó 63m2 đất ở và 3.000m2 đất lúa) năm 1994 cụ Dự được cấp quyền sử dụng đất chung một thửa số 594.

Đến năm 1996 cụ Dự chuyển Nợng cho bà Đỗ Thị Phan phần đất lúa diện tích 3.000m2, mốc ranh giới được tính từ gốc cây Gáo giáp đất ông Đỗ Thành Cu (Mốc 2) thẳng xuống trụ đá ranh (trụ hàng rào giáp đất ông Trần Văn Cột hiện nay, mốc 7) thẳng ra phía sau hậu đất hai bên giáp đất ông Cu và ông Cột, phía sau hậu đất giáp đường nước Thủy Lợi.

Sau khi bà Phan qua đời, năm 2011 anh Đỗ Trường G (con bà Phan) chuyển Nợng phần đất lúa diện tích 3.000m2 cho ông T, bà H; Nng khi lập thủ tục chuyển Nợng quyền sử dụng đất hai bên không có yêu cầu Địa chính xã BT đến xem xét, thẩm định đo đạc thực tế để tách diện tích đất ở (thuộc một phần thửa 594 còn lại) cho hộ cụ Dự và cụ X, dẫn đến việc ông T làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất trùm lên phần đất ở của hộ gia đình cụ Lê Hữu Dự và cụ Phan Thị X. Đồng thời, tại Tờ mua bán đất giấy tay lập ngày 23/10/2011 ông T, bà H cũng xác định, năm 2011 ông bà đã thỏa thuận mua lại một phần diện tích đất ở của cụ Lê Hữu Dự, để làm lối đi và vận chuyển phân bón vào đất lúa của ông bà (ngang 3,5m x dài 14,52 = 50,6m2) thuộc thửa số 2, tờ bản đồ số 35 (Mốc 4, 5, 8, 3 về mốc 4). Điều này thể hiện trên thực tế việc ông bà chỉ nhận chuyển Nợng quyền sử dụng đất từ anh Đỗ Trường G là phần đất lúa (3.000m2 thuộc thửa 633, tờ bản đồ số 5) giáp ranh đất ở của cụ Dự th ẳng ra sau hậu đất giáp đường nước Thủy lợi là phù hợp thực tế. Đồng thời tại Công văn số:

505/CN.VPĐKĐĐ, ngày 25/12/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện TB cung cấp thông tin cho Tòa án có nêu: Đối chiếu thửa đất số 594, tờ bản đồ số 4 qua hệ thống bản đồ địa chính chính quy là thuộc thửa đất số 1, 2, 3, 4, 5 tờ bản đồ số 35 và thửa đất số 633 tờ bản đồ số 5; N vậy có căn cứ xác định hiện nay phần đất ông T, bà H đang tranh chấp là thuộc các thửa đất số 1, 2, 3, 4, 5 tờ bản đồ số 35; còn phần đất lúa diện tích 3.000m2 ông T, bà H đang canh tác là thuộc thửa đất số 633, tờ bản đồ số 5 giáp ranh với các thửa đất số 1, 2, 3, 4, 5 nêu trên.

Mặt khác, tại các biên bản ghi lời khai đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Đỗ Trường G và người làm chứng là ông Đỗ Thành Cu, ông Trần Văn Cột đều xác định: Phần đất mà ông T, bà H nhận chuyển Nợng lại của anh Đỗ Trường G vào năm 2011 là phần đất lúa có diện tích 3.000m2 tứ cận N sau:

Hướng Đông giáp (bờ đê đất lúa) ông Trần Văn Cột; Hướng Tây giáp (bờ đê đất lúa) ông Đỗ Thành Cu;

Hướng Nam giáp đường nước Thủy lợi (mốc 13 trụ đá và mốc 14 trụ đá); Hướng Bắc giáp phần đất ở của cụ Lê Hữu Dự (mốc 2 gốc gáo; mốc 8 trụ đá ranh; mốc 7 trụ rào ranh giáp ông Cột). Đồng thời tại gia đoạn phúc thẩm ông T, bà H không cung cấp chứng cứ gì mới chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình là có căn cứ. Do đó Hội đồng xét xử không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của ông T, bà H.

[3] Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy bản án sơ thẩm số 16/2022/DS-ST ngày 18/3/2022 của Tòa án nhân dân huyện TB xét xử có căn cứ phù hợp với quy định pháp luật nên giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 16/2022/DS-ST ngày 18/3/2022 của Tòa án nhân dân huyện TB.

[4] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của ông T, bà H giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 16/2022/DS-ST ngày 18/3/2022 của Tòa án nhân dân huyện TB là có căn cứ nên chấp nhận.

[5] Do yêu cầu kháng cáo của ông T, bà H không được chấp nhận nên ông T, bà H phải nộp án phí dân sự phúc thẩm theo khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[6] Các phần khác của bản án dân sự sơ thẩm số 16/2022/DS-ST ngày 18/3/2022 của Tòa án nhân dân huyện TB không bị kháng cáo kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 và khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên Xử:

1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của ông Võ Ngọc T, bà Trần Thị Tuyết H.

2. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 16/2022/DS-ST ngày 18/3/2022 của Tòa án nhân dân huyện TB, tỉnh Đồng Tháp.

3. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của hộ ông Võ Ngọc T, bà Trần Thị Tuyết H; hộ ông T, bà H gồm có các thành viên: Võ Ngọc T, Trần Thị Tuyết H, Võ Thị Ngọc Thùy, Võ Ngọc Nam (sau đây gọi chung là hộ ông T, bà H) các vấn đề cụ thể sau:

3.1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của hộ ông T, bà H về việc yêu cầu hộ bà Lê Thị NgọcS; hộ bàS gồm các thành viên: Lê Thị NgọcS, Nguyễn Văn Sang, Nguyễn Thị Hiền, Nguyễn Văn N, Lê Chí N, Trịnh Thị L, Lê Thị Tố, Lê Thị Ngọc N, Lê Thị Ngọc Đ, Lê Thị Ngọc T (sau đây gọi chung là hộ bàS) liên đới trả tiền giá trị quyền sử dụng đất diện tích 71,7m2 (Mốc 1, 12, 10, 2 về mốc 1) trên đất có căn nhà số 684 của cụ Lê Hữu Dự để lại cho anh Lê Chí N, là 60.000.000đ (Sáu mươi triệu đồng).

3.2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của hộ ông T, bà H; về việc yêu cầu hộ bà Lê Thị NgọcS di dời toàn bộ căn nhà số 754 và mái che (Mốc 12, 11, 9, 10 về mốc 12) để giao trả diện tích 66,1m2 cho ông, bà quản lý sử dụng.

3.3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của hộ ông T, bà H; về việc yêu cầu hộ bà Lê Thị NgọcS đốn, di dời toàn bộ cây trồng trên đất, diện tích 129,7m2 (Mốc 11, 4, 3, 9 về mốc 11) gồm: 05 cây xoài, 01 cây trứng cá và 01 cây gáo để giao trả đất cho ông, bà quản lý sử dụng.

3.4. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của hộ ông T, bà H; về việc yêu cầu hộ bà Phan Thị X; hộ bà X gồm các thành viên: Bà Phan Thị X, Đòan Văn R, Đoàn Thị T, Đoàn Thị Mỹ C (sau đây gọi chung là hộ bà X) liên đới trả tiền giá trị quyền sử dụng đất diện tích 121,3m2 (Mốc 5, 6, 7, 8 về mốc 5) trên đất có căn nhà số 756 của bà X, là 90.000.000đ (Chín mươi triệu đồng).

(Theo sơ đồ xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 14/3/2019 của Tòa án nhân dân huyện TB).

4. Chấp nhận yêu cầu phản tố của hộ bà Lê Thị NgọcS, buộc hộ ông Võ Ngọc T, bà Trần Thị Tuyết H liên đới chuyển quyền sử dụng đất cho hộ bà Lê Thị NgọcS đứng tên quyền sử dụng đất theo quy định, tổng diện tích 267,5m2 thuộc một phần thửa số 594, tờ bản đồ số 4, bản đồ 299 (hiện nay thuộc các thửa số 1, 4, 5 tờ bản đồ số 35, bản đồ địa chính chính quy) quyền sử dụng đất cấp ngày 12/8/2011 tên Võ Ngọc T, Trần Thị Tuyết H – tại ấp BĐ, xã BT, huyện TB, tỉnh Đồng Tháp gồm có: Ô số 1 diện tích 71,7m2 gồm các mốc (mốc 1, 12, 10, 2 về mốc 1); Ô số 2 diện tích 66,1m2 gồm các mốc (mốc 12, 11, 9, 10 về mốc 12); Ô số 3 diện tích 129, 7m2 gồm các mốc (mốc 11, 4, 3, 9 về mốc 11).

5. Chấp nhận yêu cầu phản tố của hộ bà Phan Thị X, buộc hộ ông Võ Ngọc T, bà Trần Thị Tuyết H liên đới chuyển quyền sử dụng đất cho hộ bà Phan Thị X đứng tên quyền sử dụng đất theo quy định, diện tích 121,3m2 (mốc 5, 6, 7, 8 về mốc 5) thuộc một phần thửa số 594, tờ bản đồ số 4, bản đồ 299 (hiện nay thuộc các thửa số 3 tờ bản đồ số 35, bản đồ địa chính chính quy) quyền sử dụng đất cấp ngày 12/8/2011 tên Võ Ngọc T, Trần Thị Tuyết H – tại ấp BĐ, xã BT, huyện TB, tỉnh Đồng Tháp.

(Theo sơ đồ xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 14/3/2019 của Tòa án nhân dân huyện TB).

6. Đề nghị các Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và UBND huyện TB, tỉnh Đồng Tháp thu hồi điều chỉnh lại diện tích 388,8m2 thuộc một phần thửa số 594, tờ bản đồ số 4, bản đồ 299 (hiện nay thuộc các thửa số 1, 4, 5, 3 tờ bản đồ số 35, bản đồ địa chính chính quy) quyền sử dụng đất cấp ngày 12/8/2011 tên Võ Ngọc T, Trần Thị Tuyết H – tại ấp BĐ, xã BT, huyện TB, tỉnh Đồng Tháp để cấp quyền sử dụng đất cho (hộ bà Lê Thị NgọcS diện tích 267,5m2 và hộ bà Phan Thị X diện tích 121,3m2) đứng tên theo quy định.

Hộ bà Lê Thị NgọcS và hộ bà Phan Thị X được đến Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, để yêu cầu điều chỉnh lại quyền sử dụng đất và đăng ký quyền sử dụng đất (nêu trên) theo quy định.

7. Về chi phí xem xét thẩm định và định giá tài sản Buộc hộ ông T, bà H chịu 3.434.000đ (Ba triệu bốn trăm ba mươi bốn nghìn đồng) số tiền này ông T, bà H đã nộp và chi xong.

8. Về án phí dân sự sơ thẩm - Ông T, bà H liên đới chịu 8.038.000đ (Tám triệu không trăm ba mươi tám nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm; được trừ vào số tiền đã nộp tạm ứng án phí 2.000.000đ (Hai triệu đồng) theo biên lai thu số BH/2017/0004458 ngày 07 tháng 12 năm 2018 và 2.050.000đ (Hai triệu không trăm năm mươi đồng) theo biên lai thu số BH/2018/0003859 ngày 11 tháng 7 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện TB. Do đó, hộ ông T, bà H còn phải liên đới nộp tiếp số tiền án phí dân sự sơ thẩm 3.988.000đ (Ba triệu chín trăm tám mươi tám nghìn đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện TB.

- Bà Lê Thị NgọcS không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm; nên được nhận lại số tiền đã nộp tạm ứng án phí 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số BI/2019/0006986 ngày 16 tháng 12 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện TB.

- Bà Phan Thị X không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm, và bà X thuộc trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

9. Án phí dân sự phúc thẩm Ông Võ Ngọc T, bà Trần Thị Tuyết H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm Nng được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0010020 ngày 23 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện TB, tỉnh Đồng Tháp.

10. Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014.

11. Các phần khác của bản án dân sự sơ thẩm số 16/2022/DS-ST ngày 18/3/2022 của Tòa án nhân dân huyện TB không bị kháng cáo kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

12. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

299
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 264/2022/DS-PT

Số hiệu:264/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 27/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về