TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 109/2023/DS-PT NGÀY 14/08/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ CHIA THỪA KẾ TÀI SẢN
Ngày 14 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 48/2023/TLPT-DS ngày 12 tháng 5 năm 2023 về tranh chấp quyền sử dụng đất và chia thừa kế tài sản.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 34/2023/DS-ST ngày 30 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Tuy Phước bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 132/2023/QĐ-PT ngày 13 tháng 7 năm 2023, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Anh Nguyễn C, sinh năm 1972; địa chỉ: Khu phố Vân Hội 1, thị trấn DTR, huyện TP, tỉnh BĐ (có mặt).
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Trần Duy T, sinh năm 1967; địa chỉ: Tổ 2, khu phố 7, phường Nhơn Phú, thành phố QN, tỉnh BĐ đại diện theo uỷ quyền (Theo Hợp đồng uỷ quyền ngày 11 tháng 6 năm 2021)( có mặt).
Bị đơn: Ông Lê S, sinh năm 1945; địa chỉ: Khu phố Vân Hội 1, thị trấn DTR, huyện TP, tỉnh BĐ (có mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Lê Hồng C, sinh năm 1962; địa chỉ: Khu phố Vân Hội 2, thị trấn DTR, huyện TP, tỉnh BĐ ( có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
2. Anh Lê Hoàng D, sinh năm 1964; địa chỉ: Khu phố Vân Hội 2, thị trấn DTR, huyện TP, tỉnh BĐ (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
3. Anh Lê Đình Ph, sinh năm 1966; địa chỉ: Khu phố Vân Hội 1, thị trấn DTR, huyện TP, tỉnh BĐ (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
4. Anh Lê Văn H, sinh năm 1968; địa chỉ: Khu phố Vân Hội 2, thị trấn DTR, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
5. Chị Lê Thị Chánh T, sinh năm 1971; địa chỉ: Thôn Thanh Long, xã PM, thành phố QN, tỉnh BĐ (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
6. Anh Lê Hoàng T, sinh năm 1971; địa chỉ: Tổ 11, khu phố X, phường BTX, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định (vắng mặt).
7. Chị Lê Thị Chánh T, sinh năm 1973; địa chỉ: Thôn Hanh Quang, xã PL, huyện TP, tỉnh BĐ (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
8. Anh Lê Hoàng Đ, sinh năm 1975; địa chỉ: Số nhà 53 đường Trần Quốc Toản, thành phố BMT, tỉnh ĐL ( có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
9. Chị Lê Thị Chánh H, sinh năm 1978; địa chỉ: Thôn Vĩnh Hy, xã PL, huyện TP, tỉnh BĐ (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
10. Chị Lê Thị Chánh Th, sinh năm 1983; địa chỉ: Thôn 3, xã Cư Ni, huyện Ea Kar, tỉnh ĐL ( có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
11. Chị Huỳnh Thị T, sinh năm 1972; địa chỉ: Khu phố Vân Hội 1, thị trấn DTR, huyện TP, tỉnh BĐ (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
12. Bà Lê Thị Ngọc A, sinh năm 1951; địa chỉ: Thôn HĐ, xã NA, thị xã AN, tỉnh BĐ (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
13. Anh Lê Văn L, sinh năm 1977; địa chỉ: Thôn Lãnh Vân, xã XL, huyện ĐX, tỉnh PY (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
14. Ông Nguyễn Đức Th, sinh năm 1954; địa chỉ: Số nhà 28 đường Yên Đỗ, phường Yên Đỗ, thành phố P, tỉnh GIL (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
15. Anh Lê Văn Th, sinh năm 1970; địa chỉ: Khu phố VH, thị trấn DTR, huyện TP, tỉnh BĐ (có mặt).
Người kháng cáo: Ông Lê S là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn anh Nguyễn C trình bày:
Anh là cháu ruột của ông Lê S. Cha, mẹ của anh là ông Nguyễn Đức Th và bà Lê Thị H. Cha, mẹ của anh sinh được 02 người con gồm anh là Nguyễn C và em ruột của anh là anh Nguyễn B. Ngoài ra cha, mẹ của anh không còn con riêng hay con nuôi nào khác. Mẹ của anh chết vào năm 2013; em ruột của anh là anh Nguyễn B chết vào năm 2015. Ông, bà ngoại của anh là cụ Lê Ch và cụ Trần Thị M. Ông, bà ngoại của anh sinh được 06 người con gồm: Bà Lê Thị X, bà Lê Thị H, ông Lê S, bà Lê Thị Ngọc A, ông Lê Văn L và mẹ của anh là bà Lê Thị H. Ngoài ra ông bà ngoại của anh không còn con riêng hay con nuôi nào khác. Ông ngoại của anh chết vào năm 1999, bà ngoại của anh chết vào năm 2003. Ông, bà ngoại của anh chết không để lại di chúc. Bà Lê Thị X chết vào năm 2010; bà Xay có chồng là ông Lê Hoàng Th chết vào năm 2008. Bà X có các người con gồm anh Lê Hồng Công, anh Lê Hoàng Danh, anh Lê Đình Phú, anh Lê Văn Học, chị Lê Thị Chánh Tâm, anh Lê Hoàng Tín, chị Lê Thị Chánh Tuyết, anh Lê Hoàng Đức, chị Lê Thị Chánh Hạnh, chị Lê Thị Chánh Thứ. Bà Lê Thị H chết vào năm 2001; bà H có chồng tên gì thì anh không biết; bà Hường sinh được 02 người con, một người tên Quang đã chết, không có vợ con và chị Huỳnh Thị T. Ông Lê Văn Lchết vào năm 1976; có vợ tên gì anh không biết; ông L có một người con là anh Lê Văn L. Nguồn gốc thửa đất số 394, tờ bản đồ số 08, diện tích 880m2 nay là thửa đất số 95, tờ bản đồ số 21, diện tích 963,6m2 ) đất nông nghiệp trồng lúa tại khu phố Vân Hội 1, thị trấn DTR, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định do ông, bà ngoại của anh tặng cho cho mẹ của anh sử dụng vào năm 1989 nhưng không có lập văn bản, ký kết hợp đồng hay bất kỳ giấy tờ gì. Mẹ của anh sử dụng thửa đất này đến năm 2013 thì mẹ của anh chết nên anh là người trực tiếp sử dụng thửa đất này đến năm 2020. Vào năm 2020 khi anh đang sử dụng thửa đất trên thì ông Lê S đến thửa đất ngăn cản, không cho anh sử dụng đất và ông Lê S sử dụng thửa đất này cho đến nay. Nay anh khởi kiện yêu cầu Toà án buộc ông Lê S trả lại thửa đất trên cho anh sử dụng. Trường hợp Toà án xác định thửa đất trên là di sản của ông, bà ngoại của anh chết để lại chưa phân chia thì anh yêu cầu chia thừa kế tài sản trên theo quy định của pháp luật. Anh yêu cầu nhận bằng hiện vật. Hiện nay thửa đất trên chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ai sử dụng.
Bị đơn ông Lê S trình bày:
Ông là cậu ruột của anh Nguyễn C. Ông thống nhất với toàn bộ lời trình bày của anh Nguyễn C về mối quan hệ gia đình của ông. Cha, mẹ của ông chết không để lại di chúc. Ông thừa nhận nguồn gốc thửa đất trên thuộc quyền sử dụng của cha, mẹ của ông. Vào năm 1984, cha mẹ của ông có cho bà Lê Thị H mượn thửa đất trên để canh tác trồng lúa. Đến năm 2013 bà Hchết thì anh Nguyễn C canh tác thửa đất trên. Đến năm 2020 ông yêu cầu anh C trả lại thửa đất trên cho ông sử dụng và ông đã sử dụng thửa đất này cho đến nay. Nay ông không đồng ý yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn C vì ông canh tác, sử dụng thửa đất này để có tiền thờ cúng cha mẹ của ông. Vì thửa đất trên là di sản của cha mẹ của ông chết để lại cho ông nên ông yêu cầu Toà án giao cho ông được quyền sử dụng thửa đất trên. Ông không yêu cầu chia thừa kế tài sản thửa đất trên. Hiện nay thửa đất trên chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ai sử dụng.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Lê Văn Th trình bày:
Anh là con ruột của ông Lê S. Anh thống nhất với toàn bộ lời trình bày và yêu cầu của cha của anh. Hiện nay cha của anh là người trực tiếp quản lý thửa đất trên nên cha của anh toàn quyền quyết định chứ anh không quản lý thửa đất trên nên anh không tranh chấp hay yêu cầu gì.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lê Hồng C, anh Lê Hoàng Dh, anh Lê Văn H, chị Lê Thị Chánh T, chị Lê Thị Chánh T, anh Lê Hoàng Đ, chị Lê Thị Chánh H, chị Huỳnh Thị T, bà Lê Thị Ngọc A, anh Lê Văn L vắng mặt nhưng tại lời khai anh Lê Hồng Cg, anh Lê Hoàng D, anh Lê Văn H, chị Lê Thị Chánh T, chị Lê Thị Chánh T, anh Lê Hoàng Đ, chị Lê Thị Chánh H, chị Huỳnh Thị T, bà Lê Thị Ngọc A, anh Lê Văn L thống nhất trình bày:
Các bà, anh, chị đều thống nhất về quan hệ gia đình như nguyên đơn anh Nguyễn C trình bày. Nguồn gốc thửa đất trên thuộc quyền sử dụng của vợ chồng cụ Lê Ch, cụ Trần Thị M. Vợ chồng cụ Lê Ch, cụ Trần Thị M chết không để lại di chúc. Trước khi chết chết cụ Lê Ch, cụ Trần Thị M giao thửa đất trên cho bà Lê Thị Hsử dụng. Nay các bà, anh, chị không tranh chấp, yêu cầu gì đối với di sản trên mà đồng ý với yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn C về việc yêu cầu ông Lê S có nghĩa vụ trả lại thửa đất trên cho anh Nguyễn C sử dụng. Trường hợp Toà án phân chia thừa kế tài sản là thửa đất trên thì các bà, anh, chị đều thống nhất tặng cho kỷ phần được nhận cho anh Nguyễn C sở hữu, sử dụng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lê Đình Phú vắng mặt nhưng tại lời khai anh Lê Đình Ph trình bày:
Anh thống nhất về quan hệ gia đình như nguyên đơn anh Nguyễn C trình bày. Nguồn gốc thửa đất trên thuộc quyền sử dụng của ông, bà ngoại anh. Ông, bà ngoại của anh chết không để lại di chúc. Nay anh đồng ý giao thửa đất trên cho ông Lê S sử dụng để thờ cúng ông, bà. Trường hợp Toà án phân chia thừa kế tài sản là thửa đất trên thì anh tặng cho kỷ phần được nhận cho ông Lê S sở hữu, sử dụng. Ngoài ra anh không trình bày và yêu cầu gì thêm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lê Thị Chánh Th vắng mặt nhưng tại lời khai chị Lê Thị Chánh Th trình bày:
Về mối quan hệ gia đình cụ thể như thế nào thì chị không biết chính xác. Chị cũng không biết nguồn gốc thửa đất trên thuộc quyền sử dụng của ai nên chị không tranh chấp hay yêu cầu gì đối với thửa đất trên.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Đức Th vắng mặt nhưng tại lời khai ông Nguyễn Đức Th trình bày:
Ông là chồng của bà Lê Thị Hnhưng ông và bà H đã ly hôn vào năm 1976. Ông không biết nguồn gốc thửa đất trên thuộc quyền sử dụng của ai nên ông không tranh chấp hay yêu cầu gì đối với thửa đất trên. Trường hợp Toà án phân chia thừa kế tài sản là thửa đất trên thì kỷ phần của ông được nhận ông tặng cho cho anh Nguyễn C sở hữu, sử dụng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lê Hoàng T:
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định đã tiến hành tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lê Hoàng Ttham gia tố tụng theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng anh Lê Hoàng Tkhông trình bày ý kiến đối với việc giải quyết vụ án, không có mặt tại phiên tòa lần thứ hai mà không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan.
Bản án dân sự sơ thẩm số 34/2023/DS-ST ngày 30 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Tuy Phước đã quyết định:
Không chấp nhận yêu cầu đòi lại quyền sử dụng đất của nguyên đơn anh Nguyễn C. Chấp nhận yêu cầu chia di sản thừa kế của nguyên đơn anh Nguyễn C.
1. Xác định thửa đất số 95, tờ bản đồ số 21, diện tích 963,6m2 đất nông nghiệp trồng lúa tại địa chỉ khu phố Vân Hội 1, thị trấn DTR, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định là di sản của vợ chồng cụ Lê Ch, cụ Trần Thị M chết để lại chưa phân chia.
2. Cụ Lê Ch, cụ Trần Thị M chết không để lại di chúc nên phân chia thừa kế tài sản thửa đất số 95, tờ bản đồ số 21 trên theo pháp luật.
3. Chia giao cho anh Nguyễn C được trọn quyền sử dụng thửa đất số 95, tờ bản đồ số 21, diện tích 963,6m2 đất nông nghiệp trồng lúa tại địa chỉ khu phố Vân Hội 1, thị trấn DTR, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định; có giới cận:
- Phía bắc giáp thửa đất số 87, tờ bản đồ số 21.
- Phía nam giáp thửa đất số 108, tờ bản đồ số 21.
- Phía đông giáp thửa đất số 96, tờ bản đồ số 21.
- Phía tây giáp đường bê tông.
Hiện trạng thửa đất có bản đồ địa chính kèm theo.
4. Buộc ông Lê S có nghĩa vụ giao lại thửa đất số 95, tờ bản đồ số 21, diện tích 963,6m2 đất nông nghiệp trồng lúa tại địa chỉ khu phố Vân Hội 1, thị trấn DTR, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định cho anh Nguyễn C sử dụng.
5. Buộc anh Nguyễn C có nghĩa vụ thanh toán lại cho ông Lê S số tiền 12.669.500 đồng (Mười hai triệu sáu trăm sáu mươi chín nghìn năm trăm đồng) giá trị kỷ phần ông Lê S được nhận.
6. Buộc anh Nguyễn C có nghĩa vụ thanh toán lại anh Lê Hoàng T số tiền 1.267.000 đồng (Một triệu hai trăm sáu mươi bảy nghìn đồng) giá trị kỷ phần anh Lê Hoàng T được nhận.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định chi phí tố tụng, án phí dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo của các bên đương sự.
Ngày 12 tháng 4 năm 2023, bị đơn ông Lê S có đơn kháng cáo yêu cầu sửa bản án dân sự sơ thẩm, giao thửa đất số 95, tờ bản đồ số 21, diện tích 963,6m2 đất nông nghiệp tại khu phố Vân Hội 1, thị trấn DTR, huyện Tuy Phước, Bình Định để ông canh tác, thờ cúng ông bà tổ tiên.
Tại phiên toà, nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu: Trong quá trình tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận nội dung kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về sự có mặt của đương sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Lê Hồng C, anh Lê Hoàng D, anh Lê Đình Ph, anh Lê Văn H, chị Lê Thị Chánh T, anh Lê Hoàng T, chị Lê Thị Chánh T, anh Lê Hoàng Đ, chị Lê Thị Chánh H, chị Lê Thị Chánh Th, chị Huỳnh Thị T, bà Lê Thị Ngọc A, anh Lê Văn L, ông Nguyễn Đức Th đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; anh Lê Hoàng T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Lê S, Hội đồng xét xử thấy rằng:
[2.1] Trong quá trình giải quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm, nguyên đơn ông Nguyễn C, bị đơn ông Lê S và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều thống nhất khai về quan hệ gia đình của cụ Lê Ch và cụ Trần Thị M, về hàng thừa kế và di sản thừa kế mà cụ Ch, cụ M để lại là thửa đất số 95, tờ bản đồ số 21, diện tích 963,6m2 đất nông nghiệp trồng lúa tại địa chỉ khu phố Vân Hội 1, thị trấn DTR, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định (gọi tắt là thửa đất số 95), hiện nay thửa đất này chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cụ Ch, cụ M chết không để lại di chúc. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc chia thừa kế theo pháp luật đối với thửa đất nêu trên của cụ Ch, cụ M là có căn cứ, phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 650 Bộ luật dân sự năm 2015.
[2.2] Tuy nhiên, bị đơn ông Lê S kháng cáo yêu cầu giao thửa đất số 95 cho ông quản lý sử dụng để thờ cúng ông bà theo di nguyện của cha mẹ ông. Hội đồng xét xử thấy rằng: Trong quá trình giải quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm và tại phiên toà phúc thẩm, ông không cung cấp được chứng cứ, chứng minh việc cha mẹ ông là cụ Ch, cụ M để lại di chúc cho ông trọn quyền quản lý, sử dụng đối với thửa đất số 95. Mặt khác, theo như ông S khai khi còn sống cha mẹ ông đã cho bà H (mẹ anh C) canh tác thửa đất nêu trên từ năm 1984, đến năm 2013, sau khi bà H mất thì anh C tiếp tục canh tác đến năm 2020, việc canh tác thửa đất nêu trên của bà H, anh C là liên tục và không ai có ý kiến gì cho đến khi xảy ra tranh chấp với gia đình ông. Ngoài ra, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là anh Lê Hồng C, anh Lê Hoàng D, anh Lê Văn H, chị Lê Thị Chánh T, chị Lê Thị Chánh T, anh Lê Hoàng Đ, chị Lê Thị Chánh H, chị Huỳnh Thị T, bà Lê Thị Ngọc A, anh Lê Văn L đều thống nhất để lại phần di sản của mình được nhận cho anh C. Vì vậy, giá trị kỷ phần mà anh C được nhận nhiều hơn so với giá trị kỷ phần của ông S được nhận. Do đó, ông S kháng cáo yêu cầu giao thửa đất số 95 cho ông là không phù hợp, không đảm bảo quy định diện tích đất tối thiểu được tách thửa trên địa bàn tỉnh Bình Định theo Quyết định số 40/2014/QĐ-UBND ngày 25/12/2014 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Định ban hành. Vì vậy, Toà án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn phân chia cho anh C được nhận hiện vật là quyền sử dụng thửa đất số 95, tờ bản đồ số 21 và buộc anh C thanh toán lại giá trị kỷ phần cho ông S, anh T là có căn cứ, phù hợp quy định pháp luật.
[3] Từ những phân tích đã nêu, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của ông Lê S, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Lê S được miễn theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội [5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[6] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án đề nghị không chấp nhận nội dung kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 166, 623, 650, 651, 652, 660 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12, điểm a khoản 7 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Lê S. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 34/2023/DS-ST ngày 30 tháng 3 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện Tuy Phước.
2. Xác định thửa đất số 95, tờ bản đồ số 21, diện tích 963,6m2 đất nông nghiệp trồng lúa tại địa chỉ khu phố Vân Hội 1, thị trấn DTR, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định là di sản của vợ chồng cụ Lê Ch, cụ Trần Thị M chết để lại chưa phân chia.
3. Chia giao cho anh Nguyễn C được trọn quyền sử dụng thửa đất số 95, tờ bản đồ số 21, diện tích 963,6m2 đất nông nghiệp trồng lúa tại địa chỉ khu phố Vân Hội 1, thị trấn DTR, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định; có giới cận:
- Phía bắc giáp thửa đất số 87, tờ bản đồ số 21;
- Phía nam giáp thửa đất số 108, tờ bản đồ số 21;
- Phía đông giáp thửa đất số 96, tờ bản đồ số 21;
- Phía tây giáp đường bê tông.
4. Buộc ông Lê S có nghĩa vụ giao lại thửa đất số 95, tờ bản đồ số 21, diện tích 963,6m2 đất nông nghiệp trồng lúa tại địa chỉ khu phố Vân Hội 1, thị trấn DTR, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định cho anh Nguyễn C sử dụng.
5. Buộc anh Nguyễn C có nghĩa vụ thanh toán lại cho ông Lê S số tiền 12.669.500 đồng (Mười hai triệu sáu trăm sáu mươi chín nghìn năm trăm đồng) giá trị kỷ phần thừa kế ông Lê S được nhận.
6. Buộc anh Nguyễn C có nghĩa vụ thanh toán lại anh Lê Hoàng T số tiền 1.267.000 đồng (Một triệu hai trăm sáu mươi bảy nghìn đồng) giá trị kỷ phần thừa kế anh Lê Hoàng T được nhận.
7. Về chi phí tố tụng và án phí:
7.1. Chi phí xem xét tại chỗ và định giá tài sản: Anh Nguyễn C tự nguyện chịu số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng), anh Nguyễn C đã nộp xong.
7.2. Về án phí:
Án phí dân sự sơ thẩm: Buộc anh Nguyễn C phải chịu số tiền 2.723.000 đồng (Hai triệu bảy trăm hai mươi ba nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) anh Nguyễn C đã nộp theo biên lai thu số 0005841 ngày 21 tháng 5 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, anh Nguyễn Ccòn phải nộp số tiền 2.423.000 đồng (Hai triệu bốn trăm hai mươi ba nghìn đồng). Anh Lê Hoàng T phải chịu số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Ông Lê S được miễn Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Lê S được miễn.
8. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
9. Về quyền, nghĩa vụ thi hành án:
9.1. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành cho đến khi thi hành án xong, tất cả khác khoản tiền hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015.
9.2. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
10. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất và chia thừa kế tài sản số 109/2023/DS-PT
Số hiệu: | 109/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Định |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 14/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về