Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 92/2021/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 92/2021/DS-PT NGÀY 21/12/2021 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong các ngày 15 và ngày 21 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Toà n nhân dân tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý s 56/2021/TLPT-DS ngày 07/10/2021 về việc "Tranh chấp quyền sử dụng đất".

Do bản án dân sự sơ thẩm số 08/2021/DS-ST ngày 30/7/2021 của Tòa án nhân dân huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên có kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 67/2021/QĐ-PT ngày 14 tháng 10 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lê Thị H, S năm 1973;

Đa chỉ: Xóm QT, xã YL, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên (Có mặt tại phiên toà)

Bị đơn: Ông Ngô Duy T, S năm 1958;

Đa chỉ: Xóm QT, xã YL, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên (Có mặt tại phiên toà)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Trần Thị N, S năm 1964; (Có mặt tại phiên toà) Địa chỉ: Xóm QT, xã YL, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên

2. Ông Lê Quý T1, S năm 1933; (Vắng mặt tại phiên toà) Địa chỉ: Xóm QT, xã YL, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên

3. Anh Âu Văn S, S năm 1968; (Vắng mặt tại phiên toà) Địa chỉ: Xóm QT, xã YL, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên (Ông T1, anh S ủy quyền cho chị H) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Lê Thị H trình bày:

Năm 1971 ba mẹ chị khai ph được thửa đất ven suối giúp ranh với gia đình ông T trên bản đồ địa chính đo năm 2009 là thửa số 23 tờ bản đồ số 67 diện tích 679,4m2. Trong qu trình sử dụng gia đình có lối đi ra suối để sinh hoạt thoát nước ra phía sau, có chiều rộng 2m chiều dài 13,5m. Năm 1985 ba mẹ chị cho chị giúp chị sử dụng, năm 1993 chị giúp chị tặng cho gia đình chị sử dụng từ đó tới nay không có tranh chấp với ai.

Năm 2009 trong qu trình đo đạc bản đồ địa chính gia đình chị không được tham gia việc đo đạc đất nên thửa đất s 23 của gia đình chị không thể hiện lối đi ra suối mặc dù gia đình chị vẫn sử dụng. Đến tháng 3 năm 2018 khi gia đình chị đào rãnh tháo nước ra suối thì gia đình ông T tranh chấp phá bỏ bờ rào đường đi và không cho gia đình chị đi. Sau khi chị nhờ cán bộ địa chính kiểm tra thửa đất s 59 tờ bản đồ s 67 thì phần lối đi đã gộp vào bìa đỏ của gia đình ông T. Nay chị khởi kiện yêu cầu ông T phải tr lối đi và bồi thường tường rào của gia đình chị.

Bị đơn ông Ngô Duy T trình bày: Mảnh đất gia đình ông đang sử dụng là do ba mẹ ông tặng cho vợ chồng ông vào năm 1983. Năm 1993 gia đình ông được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông đã xây bờ rào bằng gạch từ năm 1989. Năm 1997 - 1998 thì ông Lê Quý T1 (bố đẻ chị H) có mượn ông một lối đi để đi ra suối, ông đồng ý cho ông T1 mượn, khi cho mượn không viết giấy tờ gì. Năm 2009 có chính sách đo đạc đất theo bản đồ địa chính, gia đình ông có kê khai đo đạc và có đi dẫn đạc. Khi đó có sự chứng kiến của gia đình ông T1, trưởng xóm, ông Ô. Năm 2018 gia đình ông và gia đình chị H x y ra tranh chấp đối với phần lối đi trên. Nay ông xác định phần đất tranh chấp nằm trong thửa 59 tờ bản đồ 67 của gia đình ông đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2012. Ông không nhất trí việc chị H khởi kiện đòi đất và lối đi.

Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày: à Trần Thị N (vợ ông T) nhất trí với quan điểm của ông T. Anh Âu Văn S (chồng chị H) nhất trí với quan điểm của chị H. Ông Lê Quý T1 (b đẻ chị H) cho rằng năm 1971 ông có khai phá diện tích khoảng hơn 1000m2 và có đường đi ra suối. Sau đó ông có cho con giúp là chị Lê Thị X một phần diện tích kho ng 360m2 cho bằng miệng không có giấy tờ gì, chị X có xây nhà trên diện tích đất trên nhưng chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 1993 chị X cho em gái là chị Lê Thị H, chị H đã làm thủ tục cấp quyền sử dụng đất và sử dụng từ đó cho đến nay khi sử dụng đã có 01 đường đi ra su i. Ông x c định đã cho quyền sử dụng đất và tài s n trên đất nên không liên quan gì đến vụ án. Đề nghị Toà n buộc ông T ph i tr lại diện tích và tài s n để phục vụ lối đi chung của chị H và gia đình ông.

Qu trình gi i quyết vụ án, tại bản n dân sự sơ thẩm s 17/2018/DS-ST ngày 26/11/2018 của Toà n nhân dân huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên quyết định: c yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị H đ i với ông Ngô Duy T về việc yêu cầu buộc ông T ph i tr đất là lối đi có diện tích 22,95m2 đất trồng cây lâu năm tại thửa s 59 tờ bản đồ 67 xóm QT, xã YL, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên Ngày 07/12/2018 chị Lê Thị H kh ng c o toàn bộ nội dung bản n dân sự sơ thẩm.

Tại bản án dân sự phúc thẩm s 37/2019/DS-PT ngày 20/6/2019, Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên quyết định: Chấp nhận một phần kh ng c o của chị Lê Thị H. Huỷ toàn bộ án dân sự sơ thẩm số 17/2018/DS-ST ngày 26/11/2018 của Toà n nhân dân huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Chuyển hồ sơ về toà án cấp sơ thẩm để giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

Tại bản n dân sự sơ thẩm s 08/2021/DS-ST ngày 30/7/2021 của Toà án nhân dân huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên quyết định: yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị H đối với ông Ngô Duy T về việc yêu cầu buộc ông T phải tr lại đất có diện tích 25m2 đt trồng cây lâu năm tại thửa s thửa 59 T Đ 67 tại xóm QT, xã YL, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên (đất mang tên ông Ngô Duy T).

Chp nhận một phần yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản của chị Lê Thị H đối với ông Ngô Duy T, buộc ông Ngô Duy T bồi thường thiệt hại là gi trị bức tường xây cho chị Lê Thị H s tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng).

Ngoài ra n sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kh ng cáo của đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 13/8/2021 chị Lê Thị H kháng cáo một phần bản án sơ thẩm, yêu cầu ông Ngô Duy T và bà Trần Thị N tr lại phần diện tích ngõ đi và là đường thoát nước sinh hoạt cho gia đình chị và các gia đình anh em chị như hiện trạng ban đầu.

Tại phiên tòa phúc thẩm chị Lê Thị H giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên phát biểu sự tuân theo pháp luật của Thẩm ph n - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử từ khi thụ lý vụ án đến trước khi nghị án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về đường lối giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự. Không chấp nhận kháng cáo của chị Lê Thị H, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 08/2021/DS-ST ngày 30 th ng 7 năm 2021 của Toà án nhân dân huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết qu tranh tụng tại phiên toà, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát ph t biểu ý kiến, Hội đồng xét xử nhận định:

[1.] Về thủ tục t tụng: Nguyên đơn chị Lê Thị H, kháng cáo trong hạn luật định và đã nộp dự phí kh ng c o là hợp lệ được xem xét theo trình tự phúc thẩm. [2.] Xét nội dung kh ng c o của chị Lê Thị H Hội đồng xét xử thấy: Phần đất tranh chấp giữa hai gia đình ông T và chị H có diện tích 25m2 nằm trong thửa đất s 59 tờ bản đồ s 67 xóm QT, xã YL đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Ngô Duy T và bà Trần Thị N năm 1993 và được cấp lại năm 2012. Phần đất tranh chấp có một mặt gi p nhà bà Vũ Thị N1;

mt mặt gi p nhà chị Lê Thị H; một mặt gi p nhà ông Ngô Duy T; một mặt gi p su i.

Chị H cho rằng diện tích đất tranh chấp có nguồn g c là do ba mẹ chị khai ph năm 1971, trong qu trình sử dụng thì đã có một lối đi ra su i. Sau đó, ba mẹ chị đã tặng cho chị giúp chị, năm 1993 chị giúp chị lại tặng cho vợ chồng chị sử dụng. Chị H x c định đây là đất của chị và là lối đi sinh hoạt của gia đình chị ra phía sau.

Ông T x c định phần đất tranh chấp nằm trong thửa đất s 59 tờ bản đồ 67 mà gia đình ông đang sử dụng, có nguồn g c năm 1983 ông nhận tặng cho từ b mẹ. Năm 1993 ông được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2009 có chính s ch đo đạc theo bản đồ địa chính, gia đình ông có đi dẫn đạc đo đất, năm 2012 gia đình ông được cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong đó có phần đất đang tranh chấp.

Tại bản mô t ranh giới, m c giới thửa đất của gia đình ông T cũng như gia đình chị H thì có các hộ gi p ranh đều ký x c nhận. Chị H x c định là có ký nhưng chỉ ký x c định hộ ông T gi p ranh là không có căn cứ. Theo bản đồ 299 phần diện tích đất nhà chị H thể hiện tại thửa 558, tờ bản đồ s 3 (mang tên ông Lê Quý T1) phần đất nhà chị H (thời điểm mang tên ông Lê Quý T1 theo bản đồ 299) không thể hiện lối đi ra suối như kê khai của chị H. Đại diện chính quyền địa phương xã YL cũng x c định bản đồ 299 phù hợp với hiện trạng đo đạc bản đồ 2009, hiện trạng phù hợp, vị trí vẫn giữ nguyên so với bản đồ 299, trong bản đồ 299 phía nhà chị H (trước kia là ông Lê Quý T1) không có phần lối đi ra suối có chiều rộng kho ng gần 2m, chiều dài kho ng 13,5m như chị H đã kê khai. Đồng thời U ND xã YL x c nhận nguồn g c thửa đất đang tranh chấp hiện nay là thửa s 59, tờ bản đồ s 67 là của gia đình ông Ngô Duy T, đã được cấp giấy chứng nhận QSD đất theo diện tích và ranh giới, m c giới thửa đất, c c hộ đã ký gi p ranh đúng theo quy định, ông Ngô Duy T vẫn sử dụng và qu n lý theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được cấp đổi theo bản đồ địa chính năm 2012.

Như vậy, Toà n cấp sơ thẩm đã xem xét toàn diện vụ án, đ nh gi c c tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, để từ đó bác yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị H là có căn cứ, phù hợp với thực tế và được chấp nhận. Do đó, cần b c kh ng c o của chị Lê Thị H, giữ nguyên bản n sơ thẩm.

[3]. Đề nghị của Viện kiểm s t nhân dân tỉnh Thái Nguyên tại phiên tòa là có căn cứ.

[4] Về án phí: Đương sự ph i chịu n phí theo quy định của ph p luật. Từ sự phân tích trên;

QUYẾT ĐỊNH

p dụng khoản 1 Điều 308 ộ luật t tụng dân sự, không chấp nhận kh ng c o của nguyên đơn chị Lê Thị H. Giữ nguyên bản n dân sự sơ thẩm s 08/2021/DS-ST ngày 30 tháng 7 năm 2021 của Toà n nhân dân huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.

p dụng các Điều 166, 357, 584, 585, 586 và Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015; các Điều 99, 100 và Điều 203 Luật đất đai; Nghị quyết số 326/2016/UTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Qu c hội quy định về mức thu, miễn, gi m, thu, nộp, qu n lý và sử dụng n phí và lệ phí Tòa n.

1. c yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị H đ i với ông Ngô Duy T về việc yêu cầu buộc ông T ph i tr lại đất có diện tích 25m2 đất trồng cây lâu năm tại thửa s thửa 59 tờ bản đồ 67 tại xóm QT, xã YL, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên (đất mang tên ông Ngô Duy T).

2. Chấp nhận một phần yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài s n của chị Lê Thị H đ i với ông Ngô Duy T, buộc ông Ngô Duy T bồi thường thiệt hại là gi trị bức tường xây cho chị Lê Thị H s tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng).

Kể từ ngày bản n có hiệu lực ph p luật, trường hợp bên có nghĩa vụ chậm tr tiền thì bên đó ph i tr lãi đ i với s tiền chậm tr tương ứng với thời gian chậm tr .

3. Án phí:

3.1 n phí dân sự sơ thẩm: Chị Lê Thị H ph i chịu 300.000 đồng n phí dân sự sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước. Được trừ vào s tiền 300.000đ tạm ứng n phí đã nộp theo biên lai s 0012337 ngày 01/8/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.

3.2 n phí dân sự phúc thẩm: Chị Lê Thị H ph i chịu n phí dân sự phúc thẩm. Ghi nhận chị H đã nộp đủ n phí dân sự phúc thẩm theo biên lai s 0013898 ngày 13/8/2021 của Chi cục Thi hành n dân sự huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án Dân sự, thì người được Thi hành án Dân sự, người ph i thi hành n có quyền tho thuận thi hành n, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện yêu cầu thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

287
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 92/2021/DS-PT

Số hiệu:92/2021/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Nguyên
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 21/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về