Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 718/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 718/2022/DS-PT NGÀY 10/10/2022 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 10 tháng 10 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai, vụ án thụ lý số: 145/2022/TLPT-DS ngày 13 tháng 5 năm 2022 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.Do Bản án dân sự sơ thẩm số 15/2020/DS-ST ngày 27 tháng 10 năm 2020 của Toà án nhân dân tỉnh Bạc Liêu bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1280/2022/QĐ-PT ngày 15 tháng 7 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số: 129/2022/QĐ-PT ngày 11 tháng 8 năm 2022; Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1624/2022/QĐ-PT ngày 26 tháng 8 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số: 148/2022/QĐ-PT ngày 06 tháng 9 năm 2022 và Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 2003/2022/QĐ-PT ngày 12 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn:

1. Bà Lê Thị H, sinh năm 1961 (có mặt);

Cư trú tại: Số 206, ấp G, xã H1, huyện V, tỉnh Bạc Liêu.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Lê Thị H: Ông Châu Phi Đ, là Trợ giúp viên pháp lý của Chi nhánh trợ giúp pháp lý số 1 - Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Bạc Liêu (có mặt).

2. Bà Lê Thị X, sinh năm 1954 (xin xét xử vắng mặt); Cư trú tại: Ấp T, xã G1, huyện M, tỉnh Sóc Trăng;

Nơi ở hiện nay: Số 205, ấp G, xã H1, huyện V, tỉnh Bạc Liêu.

3. Bà Lê Thị P, sinh năm 1952 (vắng mặt);

Cư trú tại: Số 147, ấp H2, xã T1, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Lê Thị P: Bà Lê Thị H, sinh năm 1961; cư trú tại: Số 206, ấp G, xã H1, huyện V, tỉnh Bạc Liêu (Theo Văn bản ủy quyền ngày 04/10/2022) (có mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Lê Thị X và bà Lê Thị P:

Ông Trần Minh T2, là Trợ giúp viên pháp lý của Chi nhánh trợ giúp pháp lý số 1 - Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Bạc Liêu (có mặt).

4. Bà Lê Thị S, sinh năm 1963 (vắng mặt);

Cư trú tại: Số 5/68B, ấp T3, xã V1, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Lê Thị S: Bà Lê Thị H, sinh năm 1961; cư trú tại: Số 206, ấp G, xã H1, huyện V, tỉnh Bạc Liêu (Theo Văn bản ủy quyền ngày 04/10/2022) (có mặt).

- Bị đơn:

1. Ông Lâm Thanh T4 sinh năm 1969 (có mặt);

2. Bà Giang Thị Kiều L sinh năm 1967 (có mặt);

Cùng cư trú tại: Số 207, ấp G, xã H1, huyện V, tỉnh Bạc Liêu.

Ngưi đại diện theo ủy quyền của ông T4, bà L: Ông Đoàn Đình M1, sinh năm 1974 (Theo Giấy ủy quyền ngày 29/7/2022) (có mặt);

Cư trú tại: Số 41/42, đường số 5, phường B1, quận B2, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Lâm Thanh T5, sinh năm 1997 (xin vắng mặt);

2. Anh Lâm Thanh T6, sinh năm 2002 (vắng mặt);

Cùng cư trú tại: Ấp G, xã H1, huyện V, tỉnh Bạc Liêu.

Ngưi đại diện theo ủy quyền của anh T6: Ông Đoàn Đình M1, sinh năm 1974 (Theo Giấy ủy quyền ngày 29/7/2022) (có mặt);

Cư trú tại: Số 41/42, đường số 5, phường B1, quận B2, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Chị Lâm Thị Thúy X1, sinh năm 1991 (xin vắng mặt);

Cư trú tại: Ấp G, xã H1, huyện V, tỉnh Bạc Liêu;

Nơi ở hiện nay: No.316.JLN BPJ 2/11 S1 2 Bandanr Puteri Jaye, S2, Malaysia.

4. Ông Lê Văn H3, sinh năm 1966 (vắng mặt); Cư trú tại: Ấp G, xã H1, huyện V, tỉnh Bạc Liêu.

5. Ông Lý Văn G2, sinh năm 1968 (vắng mặt);

6. Anh Lý Phi L1, sinh năm 1980 (vắng mặt);

7. Anh Lý Văn L2(Vũ), sinh năm 1985 (vắng mặt);

8. Chị Lý Thị C(Lý Thị Thu C), sinh năm 1982 (vắng mặt);

9. Chị Lý Thị P1(Lý Thị Kiều P1), sinh năm 1987 (vắng mặt);

Cùng cư trú tại: Ấp G, xã H1, huyện V, tỉnh Bạc Liêu.

10. Ủy ban nhân dân huyện V, tỉnh Bạc Liêu;

Địa chỉ trụ sở: Ấp X2, thị trấn C1, huyện V, tỉnh Bạc Liêu.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Ký Trọng N, chức vụ: Trưởng Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện V (Theo Văn bản ủy quyền số 12/GUQ ngày 28/4/2020) (xin vắng mặt).

- Người kháng cáo: Bà Lê Thị X, bà Lê Thị H, bà Lê Thị S và bà Lê Thị P là nguyên đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà Lê Thị H, bà Lê Thị X đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Lê Thị P và bà Lê Thị S thống nhất trình bày:

Nguồn gốc đất tranh chấp là của cha mẹ các bà là ông Lê Văn T7 và bà Nguyễn Thị L3 khai phá năm 1950, năm 1969 ông T7 chết, đến năm 1992 bà L3 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Quá trình sử dụng đất, ông T7 và bà L3 trồng lá và trồng dừa trên đất tranh chấp. Năm 1980, bà H được bà L3 cho phần đất tranh chấp để cất nhà ở, trồng lá dừa nước và cây dừa để lấy trái. Đến năm 2001, bà H đến Ủy ban nhân dân xã để làm thủ tục sang tên quyền sử dụng đất thì phát hiện phần đất tranh chấp đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Lâm Thanh T4 và bà Giang Thị Kiều L, nên phát sinh tranh chấp. Gia đình ông T4, bà L không cho bà H sử dụng dừa và chặt toàn bộ dừa trên đất để ông T4, bà L cất nhà ở. Khi ông T4, bà L chặt dừa thì bà H có ngăn cản và gửi đơn đến Ủy ban nhân dân xã cũng như các cơ quan khác từ năm 2001 đến nay để yêu cầu giải quyết tranh chấp đất với ông T4, bà L nhưng không được giải quyết. Nay các bà yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Lâm Thanh T4 và bà Giang Thị Kiều L trả phần đất diện tích 892m2, thửa đất số 48, (qua đo đạc thực tế diện tích 889,9m2) và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện V cấp ngày 07/5/2001 cho hộ ông Lâm Thanh T4 đứng tên. Đối với các tài sản trên đất gồm nhà và các cây trồng trên đất các bà không đồng ý bồi thường cho ông T4, bà L. Về công sức bồi đắp thì các bà đồng ý ông T4, bà L có bồi đắp đất và đồng ý giá trị bồi đắp là 3.150.000 đồng theo kết quả định giá ngày 28/02/2019.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Lâm Thanh T4và bà Giang Thị Kiều Llà ông Đoàn Đình M1 trình bày:

Nguồn gốc đất tranh chấp là của ông Lê Văn C2 và bà Nguyễn Thị T8 khai phá; do bà Lê Thị T9 là con út sống chung với ông C3, bà T8 nên khi ông C3, bà T8 chết thì toàn bộ tài sản của ông C3, bà T8 để lại hết cho bà T9 quản lý, sử dụng. Do bà Giang Thị Kiều L là cháu và sống chung nhà với bà T9 , nên bà T9 cho bà L một phần đất sử dụng từ năm 1988 để cất nhà ở bằng cây lá địa phương và trồng cây ăn trái, khi cho đất không có làm giấy tờ gì. Đến năm 1997, ông T4, bà L kê khai, đăng ký và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 07/5/2001. Đến năm 2011, ông T4, bà L xây nhà kiên cố (nhà cấp 4), ngoài ra trên đất còn trồng một số cây ăn trái và làm chuồng gà, chuồng heo để chăn nuôi. Ông T4, bà L sử dụng đất ổn định từ năm 1988 đến nay không tranh chấp; thời điểm mẹ của các nguyên đơn là bà Nguyễn Thị L3 còn sống thì bà L3 cũng không tranh chấp và không ngăn cản việc ông T4, bà L cất nhà ở trên đất tranh chấp; đến khi bà L3 chết năm 2017 thì các con bà L3 mới phát sinh tranh chấp. Do đó, ông T4, bà L không đồng ý với yêu cầu đòi đất của các nguyên đơn. Ông T4, bà L đồng ý với diện tích đất tranh chấp 889,9m2 và đồng ý với kết quả định giá ngày 28/02/2019.

Tại Tờ tường trình ngày 08/9/2020 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lâm Thanh T5 trình bày:

Anh T5 sống chung với cha mẹ từ nhỏ là ông Lâm Thanh T4 và bà Giang Thị Kiều L trên phần đất tranh chấp. Việc tranh chấp đất giữa các nguyên đơn và cha mẹ anh thì anh đồng ý với ý kiến của cha mẹ anh là ông T4, bà L. Do hiện nay anh đang đi lao động ở Đài Loan, nên anh yêu cầu vắng mặt trong các phiên họp và xét xử tại Tòa án.

Tại Tờ tường trình ngày 15/9/2020 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lâm Thị Thúy X1 trình bày:

Từ nhỏ chị sống chung cùng cha mẹ chị là ông Lâm Thanh T4 và bà Giang Thị Kiều L trên phần đất tranh chấp. Ngày 29/7/2009, chị đi lao động và sinh sống ở Malaysia và thường xuyên có gửi tiền về cho cha mẹ chị, mỗi lần gửi khoảng 20.000.000 đồng. Năm 2011, khi ông T4, bà L xây nhà thì chị có gửi tiền về phụ cha mẹ xây nhà số tiền là 70.000.000 đồng; đối với số tiền này chị đã cho cha mẹ chị thì cha mẹ chị toàn quyền quyết định. Hiện nay chị có chồng ở Malaysia, nên yêu cầu được vắng mặt trong các phiên họp và xét xử tại Tòa án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn H3 trình bày:

Ông là con của ông Lê Văn T7 và bà Lê Thị L3, là em của các nguyên đơn. Về nguồn gốc đất tranh chấp là của ông Lê Văn C2 và bà Nguyễn Thị T8 khai phá. Do bà Lê Thị T9 là con út sống chung với ông C3, bà T8 nên khi ông C3, bà T8 chết thì toàn bộ tài sản của ông C3, bà T8 đều để lại hết cho bà T9 quản lý, sử dụng. Do bà Giang Thị Kiều L là cháu và sống chung nhà với bà T9 , nên bà T9 cho bà L một phần đất để cất nhà ở hiện nay đang tranh chấp, cho đất khoảng hơn 30 năm. Nay ông xác định phần đất tranh chấp là của ông T4, bà L; ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn và không có tranh chấp gì đối với phần đất các bên đang tranh chấp.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm ông Lý Văn G2, anh Lý Phi L1, anh Lý Văn L2(Vũ), chị Lý Thị C, chị Lý Thị P1 vắng mặt và không cung cấp lời khai, nên không có lời khai tại Tòa án.

Tại Công văn số 3140/UBND-NC ngày 01/10/2019 của Ủy ban nhân dân huyện V và lời khai của người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân huyện V là ông Ký Trọng N trình bày:

Theo Mảnh trích đo địa chính số 58/2019 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện V thì phần đất tranh chấp 889,9m2 thuộc thửa số 569, tờ bản đồ số 04 đã được Ủy ban nhân dân huyện V cấp cho hộ ông Lâm Thanh T4 ngày 07/5/2001. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O 611539 cấp cho hộ ông Lâm Thanh T4 tại thửa số 569-1, 569-2, 601, 602, tờ bản đồ số 04 cấp ngày 07/5/2001 là đúng trình tự, thủ tục theo Luật Đất đai năm 1993.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 15/2020/DS-ST ngày 27/10/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu đã tuyên xử:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn gồm bà Lê Thị H, bà Lê Thị X, bà Lê Thị P và bà Lê Thị S yêu cầu ông Lâm Thanh T4 và bà Giang Thị Kiều L trả diện tích đất 889,9m2, thửa số 569, tờ bản đồ số 04, đất tọa lạc tại ấp G, xã H1, huyện V, tỉnh Bạc Liêu do Ủy ban nhân dân huyện V cấp cho hộ ông Lâm Thanh T4 ngày 07/5/2001.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản tranh chấp, án phí dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 10/11/2020 Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu nhận đơn kháng cáo của Bà Lê Thị X, bà Lê Thị H, bà Lê Thị S và bà Lê Thị P là nguyên đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm theo hướng buộc ông Lâm Thanh T4 và bà Giang Thị Kiều L giao trả diện tích đất tranh chấp 889,9m2 lại cho nguyên đơn, hủy toàn bộ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho hộ ông Lâm Thanh T4 và bà Giang Thị Kiều L.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Lê Thị X, bà Lê Thị H cùng đại diện cho bà Lê Thị S và bà Lê Thị P vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, người khởi kiện vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, các đương sự không tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bà Lê Thị H có ông Châu Phi Đ trình bày:

Cấp sơ thẩm vi phạm tố tụng: Biên bản hòa giải ngày 04/5/2018 của Ủy ban nhân dân xã (BL 26-27) thành phần hòa giải không có đại diện của Ủy ban mặt trận tổ quốc vi phạm điểm b khoản 1 Điều 88 Nghị định 43 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai. Nội dung không thống nhất nhận định của án sơ thẩm cho rằng thời điểm bà L3 còn sống không có tranh chấp. Bà L3 có giấy ủy quyền cho bà H tham gia phiên tòa tại Tòa án nhân dân huyện V. Bà H có gửi văn bản trả lời phần dư thừa đất cấp ngày 17/3/1992 so với giấy chứng nhận ngày 07/5/2001. Ông T4 ở trên phần đất của bà L3 kê khai đăng ký và được cấp. Chưa có quyết định thu hồi diện tích của bà L3, cấp diện tích dư thừa cho ông T4 không đúng quy định pháp luật. Công văn 831 ngày 07/7/2016 của UBND huyện V thể hiện ông T4 ở trên phần đất của bà L3. Đề nghị Hội đồng xét xử hủy án sơ thẩm, chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại.

Bà H trình bày: Đồng ý ý kiến của người bảo vệ. Phần đất tranh chấp không có cấp cho hộ ông T4.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bà Lê Thị X và bà Lê Thị P có ông Trần Minh T2 trình bày: Phần đất tranh chấp các nguyên đơn xác định là của bà L3, mẹ của các đồng nguyên đơn sử dụng ổn định đến khi tranh chấp; phía bị đơn xác định của bà T9 cho nhưng trong hồ sơ ghi là phụ ấm là sai. Ủy ban nhân dân huyện V xác định phần đất tranh chấp cấp cho hộ ông T4 chứ không phải cá nhân, nhưng giấy là cá nhân nên thuộc trường hợp cấp sai về đối tượng. Vì vậy, quyền sử dụng đất cấp cho ông T4, bà L là không đúng quy định của pháp luật, nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn. Các đồng nguyên đơn xác định đất của bà L3 để cho các đồng nguyên đơn, buộc bị đơn trả lại đất cho đồng nguyên đơn.

Ông Đoàn Đình M1 đại diện cho bị đơn trình bày: Vợ chồng bà L, ông T4 ở trên phần đất tranh chấp từ năm 1988 lúc bà L3 còn sống. Bà L3 sống chan hòa với bà T9 , bà L, ông T4, không có tranh chấp gì. Năm 1992 Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà L3 không có thửa đất 569 mà ông T4, bà L đang ở. Đất cấp cho ông T4, bà L không có trùng thửa đất cấp cho bà L3. Việc cấp giấy cho hộ gia đình mà ghi là cá nhân ông T4 sai sót trong quá trình cấp giấy giữa hộ và cá nhân không có ảnh hưởng đến việc tranh chấp là đất của bà L3 hay của bà L, ông T4. Bà L3 là người ký giáp ranh phần đất tranh chấp với bà L, ông T4.

Bà H trình bày: Bà L3 không có ký giấy tờ gì giáp ranh. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1992 cấp cho bà L3 có thế chấp trong ngân hàng. Từ năm 2012-2015, 2016 Bà L3 có tranh chấp. Đề nghị Tòa án xem xét.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm:

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, các đương sự tham gia tố tụng chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nội dung: Kháng cáo của bà Lê Thị X, bà Lê Thị H, bà Lê Thị S và bà Lê Thị P đúng thủ tục và được xem xét theo trình tự phúc thẩm. Phần đất tranh chấp diện tích 889,9m2, thửa số 569, tờ bản đồ số 04, đất tọa lạc tại ấp G, xã H1, huyện V, tỉnh Bạc Liêu do Ủy ban nhân dân huyện V cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Lâm Thanh T4 ngày 07/5/2001. Cấp cho bà L3 không có lưu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1992; khi đó giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà L3 cấp ngày 17/03/1992 không có thửa 569, tờ bản đồ số 04; chỉ có hồ sơ xin cấp cho bà L3 theo giấy chứng nhận ngày 07/5/2001 diện tích 12.306m2 gồm các thửa: Thửa 570, thửa 572, thửa 600 và thửa 608. Không có cơ sở xác định thửa 48 năm 1992 như đồng nguyên đơn trình bày với thửa 569 tờ bản đồ số 04 cấp cho bà L, ông T4. Án sơ thẩm xét xử có căn cứ. Kháng cáo của các đương sự không có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, thụ lý và giải quyết vụ án đúng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Xét kháng cáo của bà Lê Thị X, bà Lê Thị H, bà Lê Thị S và bà Lê Thị P, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[2.1] Theo Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 28/02/2019 (BL 130-132) và Mảnh trích đo địa chính số 58-2019 (BL 191) thể hiện phần đất tranh chấp diện tích 889,9m2, thửa số 569, tờ bản đồ số 04, đất tọa lạc tại ấp G, xã H1, huyện V, tỉnh Bạc Liêu do Ủy ban nhân dân huyện V cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Lâm Thanh T4 ngày 07/5/2001, có vị trí và số đo cụ thể như sau:

Hướng Đông giáp đất của ông Lý Phi L1, có số đo là 29m + 02m; Hướng Tây giáp đất của ông Nguyễn Ánh T10, có số đo là 40m + 5,4m; Hướng Nam giáp lộ đất, có số đo là 18,6m;

Hướng Bắc giáp với kinh thủy lợi, có số đo là 31,2m.

Hiện trạng trên đất tranh chấp gồm có: 01 căn nhà chính, 01 căn nhà phụ, 02 mái che, 02 chuồng gà, 01 chuồng vịt, 01 chuồng heo, nền sân xi măng, 01 bàn thờ ông thiêu và các cây trồng gồm 06 cây dừa loại C, 07 cây dừa loại A, 01 cây me loại A, 04 cây mít loại A, 03 cây mận loại A, 22 cây kiểng trồng thẳng xuống đất, 01 cây mãn cầu loại A và 01 cây xoài loại B. Phần đất tranh chấp và tất cả các tài sản trên đất hiện nay do ông Lâm Thanh T4 và bà Giang Thị Kiều L quản lý, sử dụng.

[2.2] Về nguồn gốc đất tranh chấp:

Các nguyên đơn xác định nguồn gốc đất tranh chấp là của cha mẹ các bà là ông Lê Văn T7 và bà Nguyễn Thị L3 khai phá năm 1950, năm 1969 ông T7 chết, đến năm 1992 bà L3 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng không có chứng cứ chứng minh; khi đó giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà L3 cấp ngày 17/03/1992 không có thửa 569, tờ bản đồ số 04.

Phía bị đơn xác định nguồn gốc đất tranh chấp là của ông Lê Văn C2 và bà Nguyễn Thị T8 khai phá; do bà Lê Thị T9 là con út sống chung với ông C3, bà T8 nên khi ông C3, bà T8 chết thì toàn bộ tài sản của ông C3, bà T8 để lại hết cho bà T9 quản lý, sử dụng. Do bà Giang Thị Kiều L là cháu và sống chung nhà với bà T9 , nên bà T9 cho bà L một phần đất sử dụng từ năm 1988 để cất nhà ở bằng cây lá địa phương và trồng cây ăn trái, khi cho đất không có làm giấy tờ gì. Lời trình bày của ông T4, bà L phù hợp với lời khai của bà Lê Thị T9, bà Lê Thị N1 và ông Lê Văn H3.

Chính ông H3 là em ruột của các đồng nguyên đơn cũng xác định đất tranh chấp không phải của bà L3. Các đồng nguyên đơn thừa nhận bị đơn ở phần đất tranh chấp từ năm 1991 trước khi bà L3 được cấp giấy năm 1992.

Do đó, có căn cứ xác định nguồn gốc đất tranh chấp là của ông C3 và bà T8 khai phá, không phải do cha mẹ của các nguyên đơn là ông Lê Văn T7 và bà Nguyễn Thị L3 khai phá.

[2.3] Về quá trình sử dụng đất:

Các nguyên đơn xác định năm 1980, ông T7 và bà L3 cho bà H phần đất tranh chấp để cất nhà ở, trồng lá dừa nước và cây dừa để lấy trái, đến năm 2001 bà H kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất thì biết phần đất tranh chấp đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T4 và bà L. Đồng thời, các nguyên đơn xác định gia đình ông T4, bà L không cho bà H sử dụng dừa và chặt toàn bộ dừa trên đất để ông T4, bà L cất nhà ở. Khi ông T4, bà L chặt dừa thì bà H có ngăn cản và gửi đơn đến Ủy ban nhân dân xã cũng như các cơ quan khác từ năm 2001 đến nay để yêu cầu giải quyết tranh chấp đất với ông T4, bà L nhưng không được giải quyết. Tuy nhiên, các nguyên đơn không có chứng cứ chứng minh cho lời trình bày này của mình; khi đó bị đơn không thừa nhận có sự việc xảy ra như trình bày của các nguyên đơn.

Bị đơn ông T4, bà L xác định đã sử dụng phần đất tranh chấp từ năm 1988 để cất nhà ở bằng cây lá địa phương và trồng cây ăn trái; đến năm 2011, ông T4, bà L xây nhà kiên cố (nhà cấp 4), ngoài ra trên đất còn trồng một số cây ăn trái và làm chuồng gà, chuồng heo để chăn nuôi; ông T4, bà L sử dụng đất ổn định từ năm 1988 đến nay không tranh chấp; thời điểm mẹ của các nguyên đơn là bà Nguyễn Thị L3 còn sống thì bà L3 cũng không tranh chấp và không ngăn cản việc ông T4, bà L cất nhà ở trên đất tranh chấp.

Quá trình sử dụng đất tranh chấp, ông T4 và bà L có đi kê khai, đăng ký và được Ủy ban nhân dân huyện V cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 07/5/2001. Tại Công văn số 3140/UBND-NC ngày 01/10/2019, Ủy ban nhân dân huyện V xác định phần đất tranh chấp 889,9m2 thuộc thửa số 569, tờ bản đồ số 04 đã được Ủy ban nhân dân huyện V cấp cho hộ ông Lâm Thanh T4 ngày 07/5/2001. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O 611539 cấp cho hộ ông Lâm Thanh T4 tại thửa số 569-1, 569-2, 601, 602, tờ bản đồ số 04 cấp ngày 07/5/2001 là đúng trình tự, thủ tục theo Luật Đất đai năm 1993.

[3] Từ những phân tích và nhận định nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đúng pháp luật.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa đề nghị y án sơ thẩm phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Ý kiến của người bảo vệ cho bà H, bà P và bà X đề nghị hủy án sơ thẩm không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.

[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà H, bà P và bà X là người cao tuổi nên được miễn án phí.

Bà S phải chịu án phí do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 5; khoản 9 Điều 26; khoản 3 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 37; khoản 4 Điều 70; khoản 2 Điều 71; khoản 1 Điều 91; Điều 147; khoản 1 Điều 157; khoản 1 Điều 165; khoản 3 Điều 200; khoản 2 Điều 210; Điều 227; Điều 228; Điều 243; Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 203 Luật Đất đai năm 2013; Căn cứ Điều 166 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận kháng cáo của bà Lê Thị H, bà Lê Thị X, bà Lê Thị P và bà Lê Thị S.

Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 15/2020/DS-ST ngày 27/10/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn gồm bà Lê Thị H, bà Lê Thị X, bà Lê Thị P và bà Lê Thị S yêu cầu ông Lâm Thanh T4 và bà Giang Thị Kiều L trả diện tích đất 889,9m2, thửa số 569, tờ bản đồ số 04, đất tọa lạc tại ấp G, xã H1, huyện V, tỉnh Bạc Liêu do Ủy ban nhân dân huyện V cấp cho hộ ông Lâm Thanh T4 ngày 07/5/2001.

2. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản tranh chấp số tiền 785.000 đồng, bà Lê Thị H, bà Lê Thị X, bà Lê Thị P và bà Lê Thị S cùng phải chịu và đã nộp xong.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lê Thị H, bà Lê Thị X, bà Lê Thị P và bà Lê Thị S phải chịu chung số tiền 300.000 đồng. Bà Lê Thị X đại diện các nguyên đơn đã nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000 đồng theo biên lai thu số 0013190 ngày 31/8/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Bạc Liêu được chuyển thu án phí.

4. Về án phí dân sự phúc thẩm: bà Lê Thị H, bà Lê Thị X, bà Lê Thị P được miễn.

Bà Lê Thị S phải chịu án phí là 300.000 đồng nhưng được trừ vào tiền tạm nộp án phí số tiền 300.000 đồng bà Lê Thị S (Lê Thị X nộp thay) theo Biên lai thu số 0014958 ngày 25/11/2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bạc Liêu.

5. Về thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

612
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 718/2022/DS-PT

Số hiệu:718/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 10/10/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về