TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ
BẢN ÁN 65/2023/DS-PT NGÀY 12/09/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 12 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 34/2023/TLPT-DS ngày 27/4/2023 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 02/2023/DS-ST ngày 15/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Phú Thọ bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55/2023/QĐXX-PT ngày 05/7/2023 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Lưu Tuấn A, sinh năm 1967 và bà Lương Thị T, sinh năm 1971 Trú tại: Khu G, xã G, huyện P, tỉnh Phú Thọ.
Người đại diện theo ủy quyền của bà T: Ông Lưu Tuấn A, sinh năm 1967 Trú tại: Khu G, xã G, huyện P, tỉnh Phú Thọ.
Bị đơn: Ông Lương Văn C, sinh năm 1967 và bà Hoàng Thị S, sinh năm 1971; đều trú tại khu G, xã G, huyện P, tỉnh Phú Thọ.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Tạ Hồng C1, sinh năm 1949, đại chỉ: Số nhà G, tổ F, khu A, N, V, Phú Thọ.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Ủy ban nhân dân huyện P, tỉnh Phú Thọ Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Ngọc Q - Phó phòng Tài nguyên và Môi trường huyện P
2. Ủy ban nhân dân xã G, huyện P, tỉnh Phú Thọ.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hán Đăng L - Phó chủ tịch UBND xã G (Ông A, ông C, bà S, ông C1 có mặt, những người tham gia tố tụng khác vắng mặt) Người kháng cáo: Ông Lương Văn C và bà Hoàng Thị S.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn là ông Lưu Tuấn A trình bày:
Khoảng năm 1992 ông cùng ông Hán Văn Q1, ông Nguyễn Khắc B ở khu G, xã G, huyện P, tỉnh Phú Thọ rủ nhau lên khai hoang đất trống ở đồi L, khu G, xã G, huyện P, tỉnh Phú Thọ (Hiện nay, là thửa đất lô số 657B đang tranh chấp). Các ông tận dụng cây tự mọc trên hố tự đào và một số hố có sẵn để trồng cây bạch đàn. Năm 1993 do nhà ông Q1 nhiều đất không đủ sức làm nên ông Q1 nhượng lại cho ông và ông B tiếp tục trồng cây bạch đàn. Năm 1994 ông B nhượng lại cho ông và ông tiếp tục trồng cây bạch đàn. Cùng năm 1994 ông Lương Văn C vào ở trên đất, gần đất tranh chấp. Sau đó ông C có xin ông một phần diện tích đất trong phần diện tích đất ông khai hoang này. Do là anh em nên ông đã đồng ý. Ông và ông C đều trồng cây bạch đàn trên phần diện tích đất của mình.
Năm 1995 khi có chính sách của nhà nước về việc giao đất lâm nghiệp cho các hộ gia đình có nhu cầu canh tác thì ông cùng ông C thống nhất thỏa thuận để ông C đứng ra có làm đơn đề nghị giao thửa đất rừng số lô 657B này cho hộ ông và ông C (nhưng đứng tên trong quyết định sẽ là ông C). Phần đất của bên nào đang sử dụng thì là của người đó và sẽ tiếp tục sử dụng. Sau đó ông đi làm nên cũng không biết ông C được cấp quyết định ngày nào. Ngoài hộ ông với ông C có thỏa thuận này thì còn có hai nhóm khác cũng có thỏa thuận như vậy, Nhóm 1: gồm 05 hộ, hộ ông Lưu Trường G, hộ bà Lưu Thị N, hộ ông Lương Minh C2, hộ ông Lương Xuân K, hộ ông Nguyễn Đình N1, các hộ này thống nhất thỏa thuận để ông G là trưởng nhóm đứng ra viết đơn xin giao đất và đứng tên trong quyết định giao đất; nhóm 2: gồm các hộ Lương Quyết T1, Hán Văn Q1, Lê Văn P, các hộ này thống nhất thỏa thuận để ông Q1 là trưởng nhóm đứng ra viết đơn xin giao đất và đứng tên trong quyết định giao đất.
Cùng năm 1995 có dự án trồng cây bạch đàn thí nghiện của Trung tâm nghiên cứu cây nguyên liệu giấy (Nay là Viện nghiên cứu cây nguyên liệu giấy) nên ông hay ông C (ông không nhớ rõ) thông qua ông Triệu Hồng S1 (công tác tại Trung tâm P2) đã ký hợp đồng hợp tác giữa Trung tâm với ông và ông C để trồng thí nghiệm cây bạch đàn giống mới trên thửa đất này. Trung tâm sẽ cung cấp giống, phân bón và cây trồng còn ông và ông C sẽ chăm sóc phần cây trồng trên phần đất của mỗi ông. Ông không nhớ trung tâm ký với ai và cũng không giữ Hợp đồng, hóa đơn, chứng từ gì về việc ký hợp đồng với Trung tâm nghiên cứu nguyên liệu giấy.
Đến năm 2002 thực hiện xong dự án thí nghiệm này nên Trung tâm trả lại đất cho các hộ gia đình để hộ gia đình canh tác. Sau khi được trả đất ông vẫn canh tác trên phần đất của mình. Ông trồng cây bạch đàn đến năm 2014 khi vợ chồng ông khai thác cây bạch đàn lần cuối thì xảy ra tranh chấp với ông C. Khi xảy ra tranh chấp ông có làm đơn ra UBND xã nhưng hòa giải không thành, UBND xã yêu cầu hai bên gia đình không được trồng cây trên đất. Trong biên bản hòa giải thể hiện hai bên không được trồng cây trên đất đang tranh chấp. Nhưng hiện nay gia đình ông C vẫn đang trồng cây trên đất đang tranh chấp. Nay ông xác định 1,29ha đất rừng là cấp chung cho gia đình ông và gia đình ông C.
Tại phiên tòa ông Tuấn A khai là ông khai hoang và đang sử dụng riêng hơn 7000m2. Ông không trồng cây chung theo dự án giống cây trồng với với gia đình ông C. Ông C không sử dụng để thực hiện dự án trồng cây của trung tâm. Tuy nhiên sau đó ông khẳng định lời khai của mình tại bản tự khai và tại phiên hòa giải là trung thực, khách quan.
Nay ông đề nghị Tòa án công nhận quyền sử dụng phần đất có diện tích 7227m2 Bị đơn do ông Lương Văn C, bà Hoàng Thị S và đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Tạ Hồng C1 trình bày:
Năm 1993 ông C đến đồi L thuộc khu G, xã G (thửa đất đang tranh chấp) để canh tác, chăn nuôi lợn gà (thửa đất giáp với những hộ đang canh tác nào thì ông không biết). Khi ông C canh tác năm 1993 thì các hộ xung quanh đều biết và UBND xã có biết. Năm 1994 thực hiện chính sách giao đất, giao rừng cho các hộ gia đình để trồng cây lâm nghiệp, UBND xã có thông báo cho gia đình ông C để làm đơn để được giao đất (Địa phương chỉ nói chứ không văn bản gì, không nhớ ai thông báo, không có ai làm chứng). Tháng 1/1995 ông C làm đơn để được giao 0,5ha nhưng sau đó ông gạch đi và đề nghị giao 1ha. Ông không nắm được quy trình về việc giao đất như thế nào. Vì sao trong Quyết định lại giao 1,29ha thì ông không biết. Ông chỉ dựa vảo Biên bản giao đất và bản đồ giao đất. Sau khi được giao đất khoảng tháng 6/1996 thi ông C có cho vợ chồng ông Lưu Tuấn A mượn 1 phần diện tích đất trong 1,29ha ( phần mượn là phần hiện nay đang tranh chấp). Khi cho mượn chỉ bằng miệng, không có đo đạc và cho mượn khoảng 7000m2- 8000m2 như sơ đồ thẩm định của Tòa án là đúng.
Đến năm 2014 vợ chồng ông C yêu cầu vợ chồng ông A trả lại đất thì xảy ra tranh chấp. Khi xảy ra tranh chấp thì UBND xã có hòa giải giữ hai gia đình ông C và ông A nhưng không thành. Nay quan điểm của ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông A với lý do: Đất là do Nhà nước quản lý, nhà nước có quyền giao đất cho hộ gia đình, cá nhân. UBND huyện P có Quyết định giao đất số 194 ngày 25/01/1994 cho gia đình ông C là đúng quy định của pháp luật. Gia đình ông C không làm chung với gia đình ông A1 là cho mượn. Đối với phần diện tích đất Tòa án đi xem xét thẩm định tại chỗ thêm, đó là đất của gia đình ông bà Chung S2 sử dụng không liên quan đến thửa đất lô 657B vì nó có nguồn gốc là do ông bà Chung S2 đổi đất với ông Lương Quang C3 và ông Lương Quyết T1. Ông khẳng định lời khai của ông Nguyễn Trung G1 và ông Lương Quang T2 là đúng sự thật. Ông đề nghị Tòa án căn cứ vào lời khai của các ông G1 và T2 để giải quyết vụ án.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan UBND huyện P trình bày:
Theo quyết định số 194/QĐ-UB ngày 25/01/1995 của UBND huyện P, tỉnh Vĩnh Phú thửa đất số lô 657B (đất rừng) được giao cho hộ ông Lương Văn C, địa chỉ thường trú đội 7 xóm M (nay là khu G, xã G) sử dụng.
Theo chính sách của nhà nước: Sẽ giao đất trống hoặc đất do người dân đang canh tác thuộc xã G cho người dân tại xã có nhu cầu sử dụng đất lâm nghiệp và người dân phải có đơn xin giao đất lâm nghiệp gửi cho UBND xã. Sau khi UBND xã nhận được đơn của hộ dân có nhu cầu sử dụng đất thì UBND xã kết hợp với Hạt kiểm lâm huyện P (Nay là huyện P) và người có đơn xuống kiểm tra thực địa, nếu đất còn trống chưa ai trồng cây hoặc đất do người có đơn đang canh tác thì Hạt kiểm Lâm sẽ trình danh sách để UBND huyện xem xét và quyết định giao đất cho cá nhân có đơn và đủ điều kiện giao đất.
Vì thời gian đã lâu nên hiện nay UBND huyện không còn lưu hồ sơ, sổ sách gì về việc giao đất này. Hiện nay UBND huyện chỉ có bản bản đồ giải thửa 299 đo vẽ năm 1999 để quản lý đất đai trên địa bàn xã G.UBND huyện nắm được cũng có trường hợp một số hộ gia đình thỏa thuận để một hộ đứng đơn xin giao đất và trong quyết định giao đất.
UBND huyện không có nắm được việc hộ ông Lưu Tuấn A và hộ ông ông Lương Văn C có thỏa thuận để hộ ông Lương Văn C đứng tên trong đơn xin giao đất và Quyết định giao đất. Việc này UBND huyện đề nghị căn cứ vào lời khai của UBND xã, các hộ dân ở xã G, địa chính xã G và các hộ dân có thửa đất giáp danh với thửa đất đang tranh chấp thời điểm đó. Nếu có trường hợp này xảy ra thì nên xem xét đến thỏa thuận của các hộ dân.
Về nguồn gốc đất trước khi UBND huyện giao đất giao rừng cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài: Trước năm 1992 thì đất rừng thuộc quản lý của Hợp tác xã xã G. Sau đó có Luật đất đai năm 1993 ban hành thì đất thuộc quản lý của xã và thẩm quyền cấp đất thuộc UBND cấp huyện.
Về việc các hộ dân ở xã G thực hiện dự án trồng thực nghiệm cây giống liên kết giữa Trung tâm nghiên cứu cây nguyên liệu giấy (Nay là Viện nghiên cứu cây nguyên liệu giấy) cây giống thì dựa vào lời khai của các hộ dân đã tham gia sự án này, dựa vào lời khai của xã và lời khai của Trung tâm nghiên cứu cây nguyên liệu giấy (Nay là Viện nghiên cứu cây nguyên liệu giấy) để xác định. Chương trình này các hộ dân ký trực tiếp với Trung tâm nghiên cứu cây nguyên liệu giấy (Nay là Viện nghiên cứu cây nguyên liệu giấy) nên UBND huyện không nắm được.
Về quan điểm của UBND huyện P đề nghị Tòa Án nhân dân huyện P xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật, hoặc theo sự thống nhất thỏa thuận dân sự của hai bên.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan UBND xã G trình bày:
Ông Lương Văn C, địa chỉ: Khu G, xã G, huyện P, tỉnh Phú Thọ đã được UBND huyện P giao lô đất số 657B tại đồi lũng quả với diện tích 1.29ha theo quyết định giao đất số 194/QĐ-UB ngày 25/01/1995 của UBND huyện P, tỉnh Vĩnh Phú (Nay là UBND huyện P, tỉnh Phú Thọ) Về nguồn gốc đất: Trước năm 1992, thửa đất do Hợp tác xã Nông Nghiệp xã G và giao đất cho các hộ dân canh tác nhưng kém hiệu quả. Từ năm 1992- 1993 các hộ tự canh tác và sử dụng. Từ ngày luật đất đai năm 1993 có hiệu lực thi hành thì UBND xã quản lý. Đến năm 1995 nhà nước có chủ trương giao đất lâm nghiệp cho hộ gia đình và cá nhân canh tác, sử dụng ổn định lâu dài. Hộ gia đình nào có nhu cầu sử dụng thì làm đơn xin giao đất nhưng trên cơ sở đất hộ gia đình sử dụng từ trước không có tranh chấp thì mới được nhà nước giao.
Hiện nay xã chỉ có duy nhất bản đồ 299 được đo vẽ năm 1999. Để quản lý đất đai trên địa bàn.
Thời điểm giao đất có các ông địa diện cho UBND xã gồm: Nguyễn Trung G1 - Nguyên phó chủ tịch xã; ông Nguyễn Kim K1 - Nguyên công chức địa chính xã; ông Nguyễn Văn G2 - Nguyên đội trưởng dội sản xuất đội 7, xóm M, xã G và đại diện Hạt kiểm lâm huyện P (nay là huyện P).
Ông khẳng định theo quy định kể từ ngày luật đất đai năm 1993 có hiệu lực thi hành thì đất lâm nghiệp được giao cho UBND xã quản lý, UBND huyện có thẩm quyền giao đất, cấp đất. Đến năm 1995 Nhà nước có chủ trương giao đất rừng cho các hộ gia đình, các nhân đang canh tác, đã sử dụng và có đơn xin nhận đất. Sau khi kiểm tra trên thực địa đúng là đất hộ dân đang canh tác, sử dụng và không có tranh chấp thì được chấp nhận và gửi lên UBND huyện để được giao đất theo thẩm quyền. Khi hộ gia đình ông C và ông A xảy ra tranh chấp, UBND xã đã hòa giải phân tích cho các hộ gia đình nhưng các hộ gia đình không đồng ý. Nay Tòa án đang giải quyết vụ án đề nghị Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật để giải quyết vụ án.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 02/2023/DS-ST ngày 15/3/2023, Tòa án nhân dân (TAND) huyện P đã quyết định:
Căn cứ: Khoản 1, Điều 147; Điều 273; Bộ luật tố tụng dân sự.
Áp dụng: Điều 100, 101, 166, 202, khoản 1 Điều 203 luật đất đai năm 2013, Điều 175, 176 Bộ luật dân sự 2015; khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147, Khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự. Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn ông Lưu Tuấn A và bà Lương Thị T. Ông Lưu Tuấn A và bà Lương Thị T có quyền sử dụng một phần thửa đất số lô 657B với diện tích 7272.9m2. Buộc ông Lương Văn C và bà Hoàng Thị S phải thu toàn bộ cây trồng trên phần diện tích đất này (được xác định hình thể, vị trí, kích thước trên thực địa và được xác định bởi các mốc 1,2,3,4…32,1 thể hiện trên Bản vẽ trích đo địa chính hiện trạng sử dụng đất và Có bản vẽ kèm theo) Ngoài ra bản án còn tuyên nghĩa vụ chịu án phí, chi phí tố tụng, quyền yêu cầu thi hành án và các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Ngày 20/3/2023 bà ông Lương Văn C và bà Hoàng Thị S kháng cáo không đồng ý với bản án sơ thẩm đề nghị TAND tỉnh Phú Thọ xem xét không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lưu Tuấn A vì diện tích đất ông Lưu Tuấn A khởi kiện là đất do UBND huyện P đã giao cho gia đình ông sử dụng và hiện tại gia đình ông đang sử dụng toàn bộ diện tích đất đó.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Ông Lưu Tuấn A là nguyên đơn, ông Lương Văn C và bà Hoàng Thị S là bị đơn, ông Tạ Hồng C1 đại diện theo ủy quyền của bị đơn thống nhất thỏa thuận nội dung sau:
Diện tích đất rừng thuộc thửa đất 657B tại Khu G, xã G, huyện P, tỉnh Phú Thọ ông Lương Văn C được giao theo quyết định số: 194/QĐ-UB ngày 25/01/1995 là 1,29ha. Hiện trạng sử dụng theo kết quả đo vẽ ngày 14/7/2023 của TAND tỉnh Phú Thọ có diện tích 9768,1m2 thuộc sử dụng chung của ông C, bà S và ông A, bà T.
Các bên thống nhất: Xác định ông Lưu Tuấn A và bà Lương Thị T được quyền sử dụng một phần diện tích đất rừng S1= 4015m2 thuộc thửa đất số 657B tại Khu G, xã G, huyện P, tỉnh Phú Thọ theo chỉ giới 1,2,3,4,28,29,30,31,32,33,34,1. Ông Lương Văn C và bà Hoàng Thị S được quyền sử dụng một phần diện tích đất rừng S2= 5753,1m2 thuộc thửa đất 657B tại Khu G, xã G, huyện P, tỉnh Phú Thọ có chỉ giới 4,5,6,7,8,9,10,11,12,13,14,15,16,17,18,19,20,21,22,23,24,25,26,27,28,4 (Có sơ đồ bản vẽ kèm theo).
Ông Lương Văn C và bà Hoàng Thị S có trách nhiệm thu dọn toàn bộ cây trồng trên phần diện tích 4000m2 đất có chỉ giới 1,2,3,4,28,29,30,31,32,33,34,1 trả lại đất cho ông Lưu Tuấn A và bà Lương Thị T.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự. Chấp nhận kháng cáo của bà Hoàng Thị S và ông Lương Văn C. Sửa bản án sơ thẩm theo thỏa thuận của các đương sự.
(Chi tiết tại bài phát biểu của Kiểm sát viên lưu hồ sơ vụ án).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên; Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Kháng cáo của bà Hoàng Thị S và ông Lương Văn C là bị đơn trong hạn luật định, đơn hợp lệ nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm. Nội dung kháng cáo trong phạm vi xét xử của bản án sơ thẩm. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét nội dung này theo quy định tại Điều 293 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung kháng cáo: Tại phiên tòa phúc thẩm ông Lưu Tuấn A là nguyên đơn, ông Lương Văn C và bà Hoàng Thị S là bị đơn, ông Tạ Hồng C1 đại diện theo ủy quyền của bị đơn thống nhất thỏa thuận nội dung sau:
Diện tích đất rừng thuộc thửa đất 657B tại Khu G, xã G, huyện P, tỉnh Phú Thọ ông Lương Văn C được giao theo quyết định số: 194/QĐ-UB ngày 25/01/1995 là 1,29ha. Hiện trạng sử dụng theo kết quả đo vẽ ngày 14/7/2023 của TAND tỉnh Phú Thọ có diện tích 9768,1m2 là thuộc sử dụng chung của ông C, bà S và ông A, bà T.
Các bên thống nhất: Xác định ông Lưu Tuấn A và bà Lương Thị T được quyền sử dụng một phần diện tích đất rừng S1= 4015m2 thuộc thửa đất số 657B tại Khu G, xã G, huyện P, tỉnh Phú Thọ theo chỉ giới 1,2,3,4,28,29,30,31,32,33,34,1. Ông Lương Văn C và bà Hoàng Thị S được quyền sử dụng một phần diện tích đất rừng S2= 5753,1m2 thuộc thửa đất 657B tại Khu G, xã G, huyện P, tỉnh Phú Thọ có chỉ giới 4,5,6,7,8,9,10,11,12,13,14,15,16,17,18,19,20,21,22,23,24,25,26,27,28,4 (Có sơ đồ bản vẽ kèm theo).
Ông Lương Văn C và bà Hoàng Thị S có trách nhiệm thu dọn toàn bộ cây trồng trên phần diện tích 4000m2 đất có chỉ giới 1,2,3,4,28,29,30,31,32,33,34,1 trả lại đất cho ông Lưu Tuấn A và bà Lương Thị T.
Xét thấy sự thỏa thuận của các đương sự là tự nguyện, phù hợp với pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Về án phí phúc thẩm Án phí dân sự phúc thẩm: Bà S, ông C kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí phúc thẩm.
Quan điểm của Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự. Chấp nhận một phần kháng cáo của bà S, ông C sửa bản án sơ thẩm theo thỏa thuận của các đương sự là phù hợp với pháp luật nên chấp nhận, Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Áp dụng: Điều 100, 101, 166, 202, khoản 1 Điều 203 Bộ luật đất đai năm 2013, Điều 175, 176 Bộ luật dân sự 2015; khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự. Khoản 2 Điều 26, khoản 2 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
[1]. Chấp nhận kháng cáo của bà Hoàng Thị S và ông Lương Văn C. Sửa bản án dân sự sơ thẩm số: 02/2023/DS-ST ngày 15/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Phú Thọ. Công nhận sự thỏa thuận của ông Lưu Tuấn A là nguyên đơn, ông Lương Văn C và bà Hoàng Thị S là bị đơn, ông Tạ Hồng C1 đại diện theo ủy quyền của bị đơn nội dung sau:
Diện tích đất rừng thuộc thửa đất 657B tại: Khu G, xã G, huyện P, tỉnh Phú Thọ ông Lương Văn C được giao theo quyết định số: 194/QĐ-UB ngày 25/01/1995 là 1,29ha. Hiện trạng sử dụng theo kết quả đo vẽ ngày 14/7/2023 của TAND tỉnh Phú Thọ có diện tích 9768,1m2 là thuộc sử dụng chung của ông C, bà S và ông A, bà T.
Các bên thống nhất: Xác định ông Lưu Tuấn A và bà Lương Thị T được quyền sử dụng một phần diện tích đất rừng S1= 4015m2 thuộc thửa đất số 657B tại Khu G, xã G, huyện P, tỉnh Phú Thọ theo chỉ giới 1,2,3,4,28,29,30,31,32,33,34,1. Ông Lương Văn C và bà Hoàng Thị S được quyền sử dụng một phần diện tích đất rừng S2= 5753,1m2 thuộc thửa đất 657B tại Khu G, xã G, huyện P, tỉnh Phú Thọ có chỉ giới 4,5,6,7,8,9,10,11,12,13,14,15,16,17,18,19,20,21,22,23,24,25,26,27,28,4 (Có sơ đồ bản vẽ kèm theo).
Ông Lương Văn C và bà Hoàng Thị S có trách nhiệm thu dọn toàn bộ cây trồng trên phần diện tích 4000m2 đất có chỉ giới 1,2,3,4,28,29,30,31,32,33,34,1 trả lại đất cho ông Lưu Tuấn A và bà Lương Thị T.
[2]. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Hoàng Thị S và ông Lương Văn C không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả cho bà Hoàng Thị S và ông Lương Văn C số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm 300.000đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2020/0001695 ngày 20/3/2023 của chi cục thi hành án dân sự huyện P.
“Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7, 7a và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
[3] Các quyết định khác của bản án không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 65/2023/DS-PT
Số hiệu: | 65/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Phú Thọ |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 12/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về