Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 64/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 64/2022/DS-PT NGÀY 01/04/2022 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 01 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 261/2021/TLPT-DS ngày 30 tháng 12 năm 2021 về việc tranh chấp quyền sử dụng đất.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 115/2021/DS-ST ngày 26 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 16/2022/QĐ-PT ngày 10 tháng 02 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Đoái Hồng B, sinh năm 1973 (có mặt); Cư trú tại: Ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh C ..

- Bị đơn: Bà Trần Ngọc K1, sinh năm 1972 (vắng mặt); Cư trú tại: Ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh C ..

Người đại diện theo ủy quyền của bà K1: Ông Nguyễn Văn K2, sinh năm 1979; địa chỉ: Số 97, đường H, khóm 7, phường 7, thành phố C, tỉnh C. (văn bản quyền ngày 14/12/2020) (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

1. Cụ Nguyễn Thị T, sinh năm 1937 (vắng mặt); Cư trú tại: Ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh C ..

2. Ông Đoái Phước S, sinh năm 1980 (đã chết) Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Sẻn.

2.1. Bà Bùi Thị N, sinh năm 1983 (vắng mặt);

2.2. Anh Đoái Bảo A, sinh năm 2005 (vắng mặt); Cùng cư trú tại: Ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh C ..

- Người kháng cáo: Bà Trần Ngọc K1 là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bà Đoái Hồng B trình bày: Trước đây cha bà là cụ Đoái Phước Nhanh có phần đất diện tích 16.000m2, tọa lạc tại Tân Hòa A, xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Đến năm 2006, cụ Nhanh chuyển nhượng lại 12 công tầm lớn cho vợ chồng anh bà là ông Đoái Phước Dũng và bà Trần Ngọc K1, phần còn lại diện tích 2.592m2 để lại trồng hoa màu sinh sống.

Đến ngày 01/12/2006, cha bà họp thân tộc thống nhất cho bà quản lý sử dụng phần đất ngang 21m x dài 123,4m có các hướng tiếp giáp: Hướng Đông giáp sống Tấn Hòa; Hướng Tây giáp Đoái Phước Lý; Hướng Nam giáp Đoái Phước Dũng; Hướng Bắc giáp Đoái Phước Dũng.

Vào ngày 24/12/2016, do hoàn cảnh khó khăn và bệnh tật, cha bà đã làm giấy chuyển nhượng phân đất trên lại cho bà và anh bà, ông Đoái Phước S. Văn bản chuyển nhượng có xác nhận của chính quyền địa phương.

Sau khi ông Đoái Phước Dũng qua đời, bà Trần Ngọc K1 đã đăng ký quyền sử dụng đất toàn bộ diện tích từ quyền sử dụng của cụ Đoái Phước Nhanh sang tên Trần Ngọc K1 mà không tách riêng quyền sử dụng phần diện tích 2.592m2 cho bà.

Tại buổi hòa giải ngày 08/02/2020, bà K1 thống nhất tách phần đất có diện tích 2.592m2 trả lại cho bà nhưng đến nay bà K1 không thực hiện.

Nay, bà yêu cầu công nhận quyền sử dụng đối với phần đất theo đo đạc thức tế ngày 29/9/2020 có diện tích 2.589,8m2 tọa lạc tại ấp Tân Hòa A, xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau hiện bà K1 đang đứng tên quyền sử dụng đất cho bà.

Bà đồng ý trả số tiền 70.000.000 đồng giá trị 02 căn nhà cho cụ T.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Nguyễn Văn K2 trình bày:

Phần đất tranh chấp có nguồn gốc của cha chồng bà K1 là cụ Đoái Phước Nhanh được cấp giấy chứng nhận có tổng diện tích 31.000m2, tọa lạc tại Tân Hòa A, xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Năm 2001, cụ Nhanh chuyển nhượng cho vợ chồng bà K1 là ông Đoái Phước Dũng và bà Trần Ngọc K1 diện tích 15.000m2. Đến năm 2006, cụ Nhanh chuyển nhượng cho vợ chồng bà K1 16.000m2. Khi lập thủ tục chuyển nhượng có tổng diện tích 31.579,3m2.

Vợ chồng bà K1 cho cụ Nhanh mượn lại phần đất diện tích 2.592m2 để sinh sống cùng cụ Nguyễn Thị T là vợ sau của cụ Nhanh. Sau khi chồng bà K1 chết, cụ Nhanh lập thủ tục chuyển nhượng toàn bộ quyền sử dụng đất của cụ Nhanh cho bà K1.

Bà K1 được cấp 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với phần đất có tổng diện tích 31.579,3m2 năm 2017.

Nay, bà K1 yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi xem xét không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của khởi kiện của bà Đoái Hồng B.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cụ Nguyễn Thị T trình bày: Bà B yêu cầu Tòa án công nhận quyền sử dụng phần đất có diện tích 2.592m2 tọa lạc tại ấp Tân Hòa A, xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, cụ không đồng ý. Vì vợ chồng cụ đã chuyển nhượng cho vợ chồng Dũng, Kỷ toàn bộ phần đất có tổng diện tích 31.000m2.

Cụ xác định không ký bất cứ giấy tờ gì liên quan đến việc chuyển nhượng đất giữa cụ Nhanh với bà B và ông Sẻn.

Năm 1998, vợ chồng cụ có xây dựng trên phần đất 01 ngôi nhà cấp 04 khoảng hơn 200.000.000 đồng sử dụng đến nay.

Nay, cụ yêu cầu được quản lý và sử dụng căn nhà và phần đất mượn của ông Dũng và bà K1. Khi nào cụ không còn nhu cầu sử dụng cụ đồng ý trả cho bà K1. Nếu Tòa án giải quyết chấp nhận giao phần đất cho bà B, cụ yêu cầu bà B phải trả cho cụ giá trị căn nhà theo định giá số tiền 70.000.000 đồng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, ông Đoái Phước S trình bày: Trước đây, Cha mẹ ông là cụ Nhanh, cụ Chè có phần đất tọa lạc tại Tân Hòa A, xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau diện tích bao nhiêu ông không biết. Cụ Nhanh và cụ Chè quản lý đến năm 1983 cụ Chè mất, cụ Nhanh tiếp tục quản lý, canh tác phần đất. Đến năm 1985, cụ Nhanh chung sống như vợ chồng với cụ Nguyễn Thị T, hai cụ chung sống không có con chung.

Đến ngày 01/12/2006, cụ Nhanh họp thân tộc thống nhất chuyển nhượng phần đất 12 công tầm lớn của cụ Nhanh cho vợ chồng ông Đoái Phước Dũng và bà Trần Ngọc K1. Cụ Nhanh còn lại phần đất khoảng 2.592m2 để lại trồng hoa màu trên phần đất ngang 21m x dài 123,4m.

Vào ngày 24/12/2016, cụ Nhanh và cụ T chuyển nhượng phần đất diện tích 2.592 m2 cho ông và bà Đoái Hồng B. Hợp đồng chuyển nhượng đất có để tên ông và ông có tham gia, nhưng khi ký tên ông thống nhất để ông Hồ Thanh Mọng là anh rể ông ký tên vì ông đồng ý giao đất cho bà B và ông Mọng quản lý, canh tác. Ông đồng ý giao toàn bộ phần đất có diện tích 2.592m2 mà trước đây cụ Nhanh và cụ T chuyển nhượng cho ông với bà B cho bà B hưởng.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số:115/2021/DS-ST ngày 26 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi quyết định:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đoái Hồng B.

Công nhận phần đất có diện tích theo đo đạc thực tế 2589,8m2 tọa lạc tại ấp Tân Hòa A, xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau cho bà Đoái Hồng B.

Buộc bà Trần Ngọc K1 và cụ Nguyễn Thị T giao lại cho bà Đoái Hồng B 02 căn nhà và phần đất theo đo đạc thực tế có diện tích 2589,8m2 nằm trong thửa số 655, 656, tờ bản đồ số 02. Phần đất tọa lạc tại ấp Tân Hòa A, xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi có các hướng tiếp giáp sau:

+ Hướng Đông giáp sông Tân Hóa điểm M3M4 dài 21m;

+ Hướng Tây giáp Trần Ngọc K1 điểm M1M6 dài 21m;

+ Hướng Bắc giáp Trần Ngọc K1 điểm M1M2M3 dài 123,4m;

+ Hướng Nam giáp Đoái Phước Thanh điểm M4M5M6 dài 123,4m.

(có sơ đồ đo đạc kèm theo) Chấp nhận yêu cầu độc lập của cụ Nguyễn Thị T.

Buộc bà Đoái Hồng B trả cho cụ Nguyễn Thị T số tiền 70.000.000 đồng (bảy mươi lăm triệu đồng).

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, lãi suất chậm trả, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 06/12/2021, bà Trần Ngọc K1 có đơn kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Đoái Hồng B.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện của bà Trần Ngọc K1 giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Phần tranh luận tại phiên toà:

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn, ông Nguyễn Văn K2 tranh luận:

Cụ Nhanh và cụ T đã chuyển nhượng toàn bộ diện tích 31.000 m2 cho vợ chồng bà K1 nên không còn đất chuyển nhượng cho bà B. Bà K1 không có chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà B nên bà B kiện bà K1 là không đúng.

Bà K1 ký tên vào Biên bản họp thân tộc là do bị bà B gây áp lực. Vì sao bà B chỉ có nhận chuyển nhượng một phần đất mà có hai văn bản cùng ngày. Vì sao trong văn bản có chữ ký của bà Kỹ mà không giám định chữ ký của bà Kỹ mà chỉ giám định chữ ký của bà T.

Từ những căn cứ trên, đề nghị Hội đồng xét xử sửa toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Bà Đoái Hồng B tranh luận: Bà không có gây áp lực để bà K1 ký tên vào Biên bản họp thân tộc. Bà yêu cầu giám định chữ ký bà T vì bà T có ký tên vào hợp đồng chuyển nhượng đất nhưng lại không thừa nhận chữ ký của bà T. Bà không yêu cầu giám định chữ ký của bà K1 vì bà K1 thừa nhận tại Biên bản họp thân tộc, sau khi ông Nhanh chuyển nhượng đất cho vợ chồng bà K1 thì cụ Nhanh vẫn còn phần đất diện tích 2.592 m2.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà phát biểu: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án; của Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tại phiên tòa đúng quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự không chấp nhận kháng cáo của bà Trần Ngọc K1. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 115/2021/DS-ST ngày 26 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Bà Trần Ngọc K1 kháng cáo yêu cầu Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm xem xét sửa toàn bộ bản án sơ thẩm số: 115/2021/DS - ST ngày 26 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đoái Hồng B. Do Tòa cấp sơ thẩm chưa xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ có tại hồ sơ vụ án. Xét kháng cáo của bà K1 , Hội đồng xét xử nhận định:

[2] Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa cụ Đoái Phước Nhanh, cụ Nguyễn Thị T với bà Đoái Hồng B, ông Đoái Phước S ngày 24 tháng 12 năm 2016 được lập thành văn bản, có xác nhận của Trưởng ấp (BL 86). Tuy hợp đồng trên không có đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền nhưng bà B đã trả đủ tiền, đã nhận đất canh tác, cải tạo trên đất. Do đó, hợp đồng này được công nhận. Hơn nữa, sau khi án sơ thẩm xử, cụ T không có yêu cầu kháng cáo nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét, quyết định án sơ thẩm có hiệu lực.

[3] Phần đất tranh chấp có nguồn gốc của cụ Nhanh được cha, mẹ cho. Cụ Nhanh được Ủy ban nhân dân huyện Đầm Dơi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 1994. Năm 2001, cụ Nhanh chuyển nhượng cho ông Đoái Phước Dũng, bà Trần Ngọc K1 diện tích 15.000 m2. Đến ngày 12 tháng 9 năm 2006, cụ Nhanh chuyển nhượng cho ông Dũng, bà K1 12 công tầm lớn theo giấy sang nhượng (BL 31). Tại Biên bản họp thân tộc ngày 01 tháng 12 năm 2006 có ông Dũng, bà K1 ký tên thể hiện: “ Phần đất có giấy chủ quyền mà ông Đoái Phước Nhanh quản lý, sử dụng có diện tích 16.000 m2 đã tách ra 12 công sang nhượng cho vợ chồng ông Dũng. Còn lại 2.592 m2 giữ lại để vợ chồng cụ Nhanh sinh sống” (BL 29). Hơn nữa, tại các Biên bản xác minh những người sinh sống gần đất tranh chấp như ông Nguyễn Bảo Dũng, ông Đoái Trường Sơn xác nhận: Sau khi chuyển nhượng đất cho ông Dũng, bà K1 thì cụ Nhanh, cụ T còn lại phần đất trên 02 công. Thực tế, cụ Nhanh có căn nhà cất trên đất, sau khi chuyển nhượng đất thì cụ Nhanh, cụ T vẫn còn sống căn nhà trên và tại vụ án này, cụ T đã yêu cầu bà B trả giá trị căn nhà 70.000.000 đồng; bà B đồng ý theo yêu cầu của cụ T. Như vậy, khi chuyển nhượng đất cho ông Dũng, bà K1 thì cụ Nhanh vẫn còn chừa lại phần đất diện tích 2.592 m2 để ở và trồng hoa màu sinh sống.

[4] Tại Biên bản hòa giải việc tranh chấp giữa bà B với bà K1 ngày 08 tháng 02 năm 2020 của Ban nhân dân ấp Tân Hóa A, bà K1 trình bày: “Đến tháng 8, bà K1 sẽ cắt 02 công đất cho bà B, nếu bà B không còn sử dụng thì sang nhượng lại cho gia đình bà K1 chứ không được chuyển nhượng cho người khác” (BL 02).

Điều này chứng tỏ bà K1 không chuyển nhượng hết phần đất của cụ Nhanh và bà K1 cũng biết cụ Nhanh chuyển nhượng phần đất còn lại cho bà B nên bà K1 đồng ý tách phần đất còn lại của cụ Nhanh cho bà B đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

[5] Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của bà K1 cho rằng, bà K1 bị gây áp lực nên ký tên vào Biên bản họp thân tộc. Trình bày này không có chứng cứ chứng minh. Hơn nữa, ngoài biên bản họp thân tộc, bà K1 còn thống nhất cắt phần đất tranh chấp cho bà B và thực tế, bà K1 có ký tên vào hồ sơ đo đạc đất để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà B. Ngoài ra, người đại diện theo ủy quyền của bà K1 đặt ra vì sao chỉ giám định chữ ký của cụ T mà không giám định chữ ký của bà K1. Hội đồng xét xử xét thấy, tại Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa cụ Đoái Phước Nhanh, cụ Nguyễn Thị T với bà Đoái Hồng B, ông Đoái Phước S ngày 24 tháng 12 năm 2016 không có chữ ký bà K1 và bà K1 không tham gia vào việc chuyển nhượng đất trên nên không cần giám định chữ ký của bà K1.

[6] Từ phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bà Trần Ngọc K1. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số:115/2021/DS-ST ngày 26 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa là phù hợp.

[7] Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Trần Ngọc K1 phải chịu 300.000 đồng, bà K1 có nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng, được chuyển thu, đối trừ.

[8] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên không đặt ra xem xét.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận kháng cáo của bà Trần Ngọc K1.

Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 115/2021/DS-ST ngày 26 tháng 11 năm 2021 của Toà án nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đoái Hồng B.

Công nhận phần đất có diện tích theo đo đạc thực tế 2.589,8m2 tọa lạc tại ấp Tân Hòa A, xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau cho bà Đoái Hồng B.

Buộc bà Trần Ngọc K1 và cụ Nguyễn Thị T giao lại cho bà Đoái Hồng B 02 căn nhà và phần đất theo đo đạc thực tế có diện tích 2.589,8m2 thuộc thửa số 655, 656, tờ bản đồ số 02. Phần đất tọa lạc tại ấp Tân Hòa A, xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi có các hướng tiếp giáp sau:

+ Hướng Đông giáp sông Tân Hóa điểm M3M4 dài 21m;

+ Hướng Tây giáp Trần Ngọc K1 điểm M1M6 dài 21m;

+ Hướng Bắc giáp Trần Ngọc K1 điểm M1M2M3 dài 123,4m;

+ Hướng Nam giáp Đoái Phước Thanh điểm M4M5M6 dài 123,4m.

(có sơ đồ đo đạc kèm theo) Chấp nhận yêu cầu độc lập của cụ Nguyễn Thị T.

Buộc bà Đoái Hồng B trả cho cụ Nguyễn Thị T số tiền 70.000.000 đồng (Bảy mươi lăm triệu đồng).

Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá: Bà Trần Ngọc K1 phải chịu số tiền 1.400.000 đồng. Bà Đoái Hồng B đã dự nộp bà K1 có nghĩa vụ nộp 1.400.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi để hoàn trả lại cho bà B.

Về chi phí giám định: Cụ Nguyễn Thị T phải chịu số tiền 4.880.000 đồng. Cụ T có nghĩa vụ nộp số tiền 4.880.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi để hoàn trả lại cho bà Đoái Hồng B.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, nếu chậm thi hành án thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Trần Ngọc K1 phải chịu 6.474.500 đồng (sáu triệu bốn trăm bảy mưới bốn ngàn năm trăm đồng). Bà Đoái Hồng B phải chịu án phí số tiền 3.500.000 đồng. Ngày 02/12/2020 bà B có dự nộp số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng theo biên lai số 0011596 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi được chuyển thu đối trừ bà B phải nộp tiếp số tiền 3.200.000 đồng (Ba triệu hai trăm ngàn đồng).

Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Trần Ngọc K1 phải chịu số tiền 300.000 đồng. Ngày 07/12/2021, bà K1 đã dự nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0011764 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi được chuyển thu, đối trừ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 64/2022/DS-PT

Số hiệu:64/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 01/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về