TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 58/2024/DS-PT NGÀY 19/03/2024 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Trong ngày 19/03/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 271/2023/TLPT-DS ngày 13/11/2023, về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất” do Bản án dân sự sơ thẩm số 50/2023/DS-ST ngày 31/7/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 42/2024/QĐ-PT ngày 24/01/2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 52/2024/QĐ-PT ngày 22/02/2024 giữa:
Nguyên đơn: ông Hoàng Văn T, sinh năm 1962 (vắng mặt);
Đại diện theo ủy quyền của ông T: anh Hoàng Văn Q, sinh năm 1990 (có mặt);
Đều có địa chỉ: thôn T, xã T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Triệu Hạnh H - Văn phòng L - Đoàn Luật sư tỉnh B (có mặt khi xét xử, vắng mặt khi tuyên án);
Địa chỉ: số I, đường H, phường N, thành phố B, tỉnh Bắc Giang.
Bị đơn: ông Hoàng Văn M, sinh năm 1970 (có mặt); bà Hoàng Thị U, sinh năm 1974 (có mặt);
Đều có địa chỉ: thôn T, xã T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1- Bà Đào Thị H1, sinh năm 1968 (có mặt);
2- Chị Hoàng Thị H2, sinh năm 1988 (có mặt);
3- Anh Hoàng Văn Q, sinh năm 1990 (có mặt);
4- Anh Nguyễn Phong C, sinh năm 1987 (vắng mặt);
5- Chị Nguyễn Thị H3, sinh năm 1993 (vắng mặt);
Đều có địa chỉ: thôn TP, xã TM, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang
6- Ông Hoàng Văn H4, sinh năm 1952 (có mặt);
Địa chỉ: số nhà 06, ngách 19, ngõ 21, tổ dân phố N, phường TX, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang
7- Ông Hoàng Văn P, sinh năm 1959 (vắng mặt);
Địa chỉ: thôn TP, xã TM, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang
8- Bà Hoàng Thị M1, sinh năm 1964 (vắng mặt);
Địa chỉ: số nhà H, đường H, thị trấn L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
9- Ông Hoàng Văn C1, sinh năm 1973 (vắng mặt);
HKTT: thôn T, xã T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang Nơi ở hiện nay: tổ A, Nam sông Đ, thị trấn L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
10- UBND xã T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang do ông Lương Ngọc K - Phó Chủ tịch đại diện theo ủy quyền (theo văn bản ủy quyền số 69/QĐ-UBND ngày 27/5/2022). (vắng mặt);
11- UBND thành phố B, tỉnh Bắc Giang do ông Nguyễn Thanh T1 - Trưởng phòng Tài nguyên và môi trường đại diện theo ủy quyền (theo văn bản ủy quyền số 2694/QĐ-UBND ngày 03/7/2023) (vắng mặt);
12- Người thừa kế quyền và nghĩa vụ của bà Hoàng Thị T2: chị Lương Thị T3, sinh năm 1986 (vắng mặt) và anh Lương Quang H5, sinh năm 1987 (vắng mặt);
Đều có địa chỉ: Làng C, xã T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang Người kháng cáo: ông Hoàng Văn Q - đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Bản án dân sự sơ thẩm số 50/2023/DS-ST ngày 31/7/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang, nội dung vụ án như sau: quá trình giải quyết vụ án, các đương sự đều xác định: cụ Hoàng Văn R, sinh năm 1930, chết ngày 06/7/1998 và cụ Hoàng Thị V, sinh năm 1933, chết ngày 24/12/2011. Khi chết đều không để lại di chúc. Hai cụ sinh được 07 người con gồm ông Hoàng Văn H4, sinh năm 1952; bà Hoàng Thị T2, sinh năm 1956 (chết năm 2015, bà T2 có chồng là Lương Văn T4 đã chết và hai người con là chị Lương Thị T3, sinh năm 1986 và anh Lương Quang H5, sinh năm 1987); ông Hoàng Văn P, sinh năm 1959; ông Hoàng Văn T, sinh năm 1962; bà Hoàng Thị M1, sinh năm 1964; ông Hoàng Văn M, sinh năm 1970 và ông Hoàng Văn C1, sinh năm 1973.
Hiện tại gia đình ông T đang sống tại thửa đất số 11, tờ bản đồ số 15, diện tích 448.6m2, địa chỉ: thôn T, xã T, thành phố B, đã được UBND thành phố B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số BY986372, số vào sổ CH01605 ngày 03/12/2014 mang tên Hoàng Văn T và Đào Thị H1, các đương sự không có ý kiến hay tranh chấp gì đối với thửa đất này.
Diện tích đất tranh chấp là diện tích 115.6m2 đất (theo kết quả đo đạc ngày 19/7/2021) thuộc thửa đất số 10, tờ bản đồ 15 (đo vẽ năm 2014), diện tích 386.9m2 tại xứ đồng Cổng Vườn (cũ) thôn T, xã T, thành phố B (trước là huyện Y. Thửa đất trên đến nay vẫn chưa được cấp GCNQSDĐ. Trên thửa đất này có hộ gia đình ông T và gia đình ông M cùng sử dụng, trong đó: hộ gia đình ông T sử dụng phần diện tích đất có công trình nhà ở trên đất từ năm 1987 đến nay, không tranh chấp với ai và đã bị thu hồi một phần diện tích là 6.5m2 đất và tài sản là công trình nhà ở gắn liền với phần diện tích đất này vào năm 2019 (để thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình HTKT khu dân cư cạnh Bệnh viện nội tiết theo Quyết định số 1242/QĐ-UBND và 1243/QĐ-UBND cùng ngày 03/7/2019 của UBND thành phố B); vợ chồng ông M bà U sử dụng phần diện tích đất còn lại (tính từ phần tường bao giáp đầu hồi nhà ở của ông T đến hết phần đất giáp đường ngõ, đã được xây tường bao) vào mục đích canh tác, trồng hoa màu từ năm 1997 đến năm 2003 thì chuyển sang trồng cây lâu năm là bạch đàn, keo, xà cừ đến năm 2011 thì ông T chặt hết cây trên phần diện tích đất ông M trồng dẫn đến tranh chấp, đến tháng 7/2020 thì xây tường bao cao thêm trên nền tường cũ, quây tôn và lợp mái như hiện nay. Khi ông T và ông M sử dụng thửa đất trên thì cụ R và cụ V đều còn sống.
Các đương sự không ai cung cấp được các giấy tờ hợp pháp liên quan đến nguồn gốc, quá trình sử dụng và tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền sở hữu hợp pháp của mình đối với thửa đất và phần diện tích đất đang tranh chấp.
Nguyên đơn - ông Hoàng Văn T và đại diện theo ủy quyền - anh Hoàng Văn Văn Q thống nhất trình bày: ông T khởi kiện yêu cầu ông Hoàng Văn M và bà Hoàng Thị U phải trả lại cho gia đình ông diện tích 115.6m2 đất thuộc thửa đất số 10, tờ bản đồ 15, diện tích 386.9m2 tại thôn T, xã T, thành phố B và tháo dỡ công trình là tường bao, mái tôn trên diện tích đất này để trả lại cho gia đình ông nguyên hiện trạng đất ban đầu.
Căn cứ ông T khởi kiện là: Ông xác định thửa đất số 10, tờ bản đồ số 15 do ông mua của bà Hoàng Thị H6 (người cùng thôn) từ năm 1979 với giá 100.000 đồng, hai bên mua bán chỉ thỏa thuận miệng, không có giấy tờ gì, cũng không có ai làm chứng. Sau khi mua thửa đất này, ông đã xây tường bao xung quanh và xây dựng nhà ở, công trình phụ, đóng thuế sử dụng đất hàng năm, sản xuất sinh sống ổn định từ đó đến nay. Đến khoảng năm 2009, ông M đã tự ý xây dựng tường bao quanh và trồng cây bạch đàn trên phần diện tích đất đang tranh chấp, vợ chồng ông đã nhiều lần nói ông M trả đất nhưng vì ông M là em trai nên ông không báo chính quyền địa phương. Năm 2014, gia đình ông có làm thủ tục đề nghị được cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất trên nhưng do thửa đất đang có tranh chấp với ông M nên không được cấp. Đầu năm 2020, khi nghe tin gia đình ông được nhận tiền đền bù đất theo phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng để xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu dân cư cạnh Bệnh viện N nên tháng 7/2020, ông M đã cho người xây dựng trái phép tường bao xung quanh và lợp mái tôn lên phần diện tích đất khoảng 115,6 m2 thuộc thửa đất số 10 của gia đình ông, chặn lối đi khiến cho gia đình ông không còn lối đi vào nhà ở thửa đất số 11 bên cạnh. Gia đình ông phải đục tường đi vào đường ngõ nên ông đã khởi kiện.
Ông T xác định cả thửa đất số 10 là của ông vì: ông là người nộp thuế sử dụng đất của cả thửa đất từ năm 1987 đến nay (ông đã nộp các phiếu thu nộp thuế đất nông nghiệp các năm từ 1995-2002 và ngày 02/10/2022). Khi nhà nước thu hồi bồi thường giải phóng mặt bằng đối với một phần diện tích của thửa đất cũng đã bồi thường cho hộ gia đình ông và trong tờ trích lục thửa đất cũng ghi tên người sử dụng đất là Hoàng Văn Q (con trai ông). Ngoài các căn cứ nêu trên ông không có căn cứ cũng không có tài liệu, chứng cứ nào khác.
Bị đơn - ông Hoàng Văn M và bà Hoàng Thị U thống nhất trình bày: Ông bà không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của ông T vì không có căn cứ. Ông bà khẳng định thửa đất số 10, tờ bản đồ số 15 có nguồn gốc không phải của ông T mua mà là của cụ R và cụ V (bố mẹ ông) để lại và phần diện tích đất tranh chấp ông T đang yêu cầu vợ chồng ông trả lại không phải của ông T mà là của cụ R và cụ V cho vợ chồng ông từ năm 1997. Thửa đất trên trước đây là thửa ruộng được cụ R mua của cụ Hoàng Thị H6 (là cô ruột của cụ R) vào khoảng năm 1980. Khi mua chỉ thoả thuận bằng miệng, không có giấy tờ mua bán nhưng sau khi mua thửa đất trên thì cụ R là người trực tiếp quản lý, sử dụng vì khi đó các con (gồm cả ông T) đều còn nhỏ và vẫn ở chung với cụ R. Khi mua thửa đất này cụ R ban đầu đã bảo cho ông p (là anh thứ hai trong gia đình) ra ở nhưng sau ông p không ở nên cụ R bảo chia cho ông và ông T mỗi người một nửa. Sau đó, năm 1987, ông T lấy bà H1, do nhà đông người nên cụ R cho vợ chồng ông T ra ở riêng trên phần đất đã được cụ R làm sẵn hai gian nhà cấp bốn. Trước khi cho vợ chồng ông T ra ở riêng cụ R đã nói rõ với cả gia đình là cho ông T một nửa thửa ruộng, nửa còn lại cho ông. Trước khi ông T ra ở, ông P đã căng dây đo và đóng cọc để chia đôi thửa ruộng. Ông kết hôn với bà U năm 1995, năm 1997, vợ chồng ông ra canh tác trên nửa thửa ruộng còn lại. Do ông T ra sử dụng trước nên đã xây nhà và canh tác quá một nửa thửa ruộng so với chỗ ông P đóng cọc nên vợ chồng ông cũng không có ý kiến gì mà chấp nhận sử dụng phần đất còn lại và xây tường bao giáp với đầu hồi nhà ông T đã xây kéo đến hết phần đường giáp ngõ (là diện tích đất tranh chấp hiện nay) và trồng hoa màu. Năm 2003, vợ chồng ông chuyển sang trồng cây lâu năm (keo, bạch đàn, xà cừ). Việc này các anh em trong gia đình đều biết, không ai phản đối, chính vợ chồng ông T khi đó không có ý kiến gì.
Khoảng năm 2006-2007, mẹ ông (cụ V) và ông P yêu cầu ông T phải trả cho ông đủ diện tích của một nửa thửa đất (khoảng 144m2 = 06 thước) nhưng thực tế khi đó đo đạc cả thửa đất số 10 thì diện tích lại lớn hơn 12 thước (288m2) mà được tận 386.9m2 nên (dôi dư 98.9m2) nên ông đã kê khai đủ một nửa là 193.45m2. Ông T không đồng ý trả, và nói là nếu như vậy thì ông T phải dở nhà, dẫn đến hai bên tranh chấp nên cả hai bên đều không được cấp GCNQSDĐ. Đến năm 2011, sau khi cụ V chết, vợ chồng ông T đã tự ý chặt phá toàn bộ số cây của vợ chồng ông trồng trên diện tích đất tranh chấp nên anh em xảy ra mâu thuẫn. Do xác định là đất đã được bố mẹ cho từ năm 1997 nên tháng 7/2020, vợ chồng ông đã xây dựng tường bao xung quanh cao lên trên nền tường cũ đã xây trước đó và lợp mái tôn lên phần diện tích đất đang tranh chấp để ở nhưng vì đang có tranh chấp với ông T nên chưa ở được.
Việc vợ chồng ông xây tường bao, canh tác sử dụng diện tích đất tranh chấp từ năm 1997, trồng cây lâu năm (năm 2003) đến năm 2011 bị ông T chặt phá và việc vợ chồng ông T chưa bao giờ sử dụng hay canh tác trên phần diện tích đất 115.6 m2 đang tranh chấp này được hàng xóm xung quanh thửa đất thừa nhận, các anh em trong gia đình ông làm chứng.
Năm 2019, khi nhà nước thu hồi diện tích 6.5m2 đất thuộc thửa đất số 10 này để xây dựng Bệnh viện Nội Tiết và đền bù giá trị đất cho nhà ông T thì vợ chồng ông và các anh em trong gia đình không ai có ý kiến gì vì mọi người đều xác định phần đất bị thu hồi này là của bố mẹ đã cho ông T từ năm 1987, trên phần đất này có công trình nhà ở của ông T nên bồi thường cho ông T là đúng, còn phần đất của ông không bị thu hồi nên ông không có ý kiến gì. Ông bà cũng không có yêu cầu phản tố trong vụ án.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - ông Hoàng Văn H4 trình bày: Ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông T cũng như những nội dung ông T đã trình bày. Ông nhất trí và xác định lời trình bày của ông M bà U là đúng.
Ông xác định thửa đất số 10 và phần diện tích đất đang tranh chấp như ông M trình bày là đúng. Số tiền mà cụ R dùng để mua thửa ruộng của cụ H6 với giá 2.000 đồng là từ tiền lương của ông vì khi đó trong gia đình chỉ có mình ông là phục vụ trong quân đội đi Nam nên được nhà nước trợ cấp và tiền này được gửi về cho bố mẹ lĩnh. Việc này được chính cụ R nói với ông khi ông về nghỉ phép năm 1990. Các em ông khi đó đều còn nhỏ vẫn đang ở chung với bố mẹ. Việc ông T khai mua thửa đất trên năm 1979 với giá 100.000 đồng là rất vô lý vì khi đó nhà nước Việt Nam đang tiêu tiền đồng, tiền hào mệnh giá nhỏ, và số tiền 100.000 đồng khi ấy là rất lớn mà ông T khi đó còn nhỏ vẫn ở chung với bố mẹ và được bố mẹ nuôi thì lấy đâu ra số tiền lớn như vậy để mua đất.
Về nội dung bố mẹ ông chia thửa đất trên cho ông T và ông M mỗi người một nửa từ năm 1987 khi ông T bắt đầu ra ở riêng và quá trình diễn biến việc sử dụng thửa đất số 10 cũng như phần diện tích đất đang tranh chấp như ông M trình bày là đúng. Ông nhất trí và không có ý kiến gì bổ sung. Ông đề nghị Tòa án giữ nguyên hiện trạng sử dụng đất như hiện tại là đúng với thực tế và mong muốn của bố mẹ ông trước khi chết. Ông không có yêu cầu độc lập trong vụ án này.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan- ông Hoàng Văn P trình bày: phần diện tích 115.6m2 đất đang tranh chấp thuộc thửa đất số 10, tờ bản đồ số 15 có nguồn gốc là của bố mẹ ông để lại do bố ông (cụ R) mua từ những năm 1978- 1979 của bà H6 (còn gọi là bà B, cô ruột của cụ R) từ tiền nhà nước trợ cấp cho hộ gia đình có con đi chiến trường B (của ông H4). Giá tiền thì ông không nhớ, việc mua bán bằng miệng nhưng sau khi mua thì đã thông báo cho cả gia đình hai bên để tránh một thửa ruộng bán cho nhiều người, có tất cả con cháu trong gia đình hai bên họ nội, họ ngoại nhà ông đều biết. Thửa đất ban đầu là cụ R cho ông ở nhưng sau ông không ở nên cụ R đã nói với cả gia đình là chia đôi cho ông T và ông M mỗi người một nửa. Sau đó ông chính là người đóng cọc chia đôi thửa đất này khi ông T bắt đầu ra ở riêng.
Về nội dung bố mẹ ông chia thửa đất trên cho ông T và ông M mỗi người một nửa từ năm 1987 khi ông T bắt đầu ra ở riêng và quá trình diễn biến việc sử dụng thửa đất số 10 cũng như phần diện tích đất đang tranh chấp như ông M trình bày là đúng, ông nhất trí và không có ý kiến gì bổ sung. Ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông T và đề nghị Tòa án giữ nguyên hiện trạng sử dụng diện tích đất như hiện tại là đúng với thực tế và mong muốn của bố mẹ ông trước khi chết. Ông không có yêu cầu độc lập trong vụ án này.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - bà Hoàng Thị M1 trình bày: Bà xác định nguồn gốc thửa đất số 10, tờ bản đồ số 15 là của bố mẹ ông mua của bà Hoàng Thị H6. Bố mẹ bà có chia cho hai con là ông T và ông M mỗi người một nửa diện tích đất, việc chia đất bằng miệng không có giấy tờ nhưng anh em trong nhà ai cũng biết và đều nhất trí như vậy nên em M mới xây nhà là đúng. Đây là đất của bố mẹ để lại thì anh em phải hoà giải còn đi kiện tụng là không đúng. Nếu như đất của anh chị làm ra thì không có em nào mà ra làm đất của anh chị cả. Anh em từ trên xuống dưới, nội ngoại cho đến hàng xóm láng giềng ai cũng nói là quá tham lam còn đi kiện tụng nữa là không đúng với người làm anh làm chị, bà không bênh ai cả, đề nghị Tòa án giải quyết cho hợp tình hợp lý. Bà không có yêu cầu gì đến diện tích đất tranh chấp.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - ông Hoàng Văn C1 trình bày: Ông xác định nguồn gốc thửa đất số 10, tờ bản đồ số 15 là của bố mẹ ông mua của bà Hoàng Thị H6. Bố mẹ ông có chia cho hai con là ông T và ông M mỗi người một nửa diện tích đất, việc chia đất bằng miệng không có giấy tờ nhưng anh em trong nhà ai cũng biết và đều nhất trí như vậy. Ông không có yêu cầu gì đến diện tích đất tranh chấp.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Đào Thị H1, anh Hoàng Văn Q, chị Hoàng Thị H2, anh Nguyễn Phong C, chị Nguyễn Thị H3 đều thống nhất trình bày: không có yêu cầu độc lập gì, thống nhất và đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Văn T.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan - đại diện UBND thành phố B trình bày: theo báo cáo của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố B hiện tại không có hồ sơ liên quan đến thửa đất số 10, tờ bản đồ số 15 đang tranh chấp do thửa đất chưa được cấp GCNQSDĐ, không có thông tin biến động do đó UBND thành phố B không có cơ sở thể hiện quan điểm vụ việc về nguồn gốc và lịch sử biến động của thửa đất trên. Đến nay, UBND thành phố B chưa nhận được hồ sơ đề nghị giải quyết tranh chấp đất đai liên quan nội dung của nguyên đơn. Vì vậy chưa có bất kỳ xử lý nào về các nội dung tranh chấp nêu trên. Lý do thửa đất trên chưa được cấp GCNQSDĐ là do UBND thành phố không có hồ sơ đề nghị cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất trên.
Đối với việc thu hồi đất (đợt 6) và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đề thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình HTKT khu dân cư cạnh Bệnh viện nội tiết theo Quyết định số 1242/QĐ-UBND và 1243/QĐ-UBND cùng ngày 03/7/2019 (phần liên quan đến phần đất của hộ gia đình ông Hoàng Văn T) trên cơ sở cung cấp hồ sơ và báo cáo của Trung tâm phát triển quỹ đất tại Công văn số 126/TTQĐ ngày 11/7/2023 xác định: theo bản đồ phục vụ công tác bồi thường GPMB, gia đình ông T sử dụng thửa đất số 108, tờ bản đồ số 01 (chính là thửa số 10, tờ bản đồ số 15), ký hiệu loại đất ONT, diện tích 532,4m2, diện tích đất nằm trong ranh giới thực hiện dự án là 6,5m2. Ngày 25/10/2018, UBND xã T tổ chức hội nghị quân dân chính đảng mở rộng trong khu dân cư đề xác định về nguồn gốc, quá trình sử dụng đất, loại đất của gia đình ông T. Tại buổi làm việc đại diện các ông bà ở thôn T, các ban ngành đoàn thể ở xã thống nhất đề nghị bồi thường cho hộ ông T 6,5m2 đất ở chưa được cấp GCNQSDĐ và tài sản gắn liền với phần diện tích đất bị thu hồi gia đình sử dụng ổn định trước năm 1993 không có tranh chấp và được UBND xã T xác nhận chủ sử dụng đất và diện tích đất để bồi thường cho hộ ông T. Do vậy, Quyết định số 1242/QĐ-UBND về việc thu hồi đất (đợt 6) và Quyết định số 1243/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường (đợt ố) cùng ngày 03/7/2019 đối với diện tích hộ gia đình ông Hoàng Văn T là đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết vụ án theo quy định.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan - đại diện UBND xã T, thành phố B trình bày: qua kiểm tra tài liệu, hồ sơ địa chính được lưu tại UBND xã thì hiện không lưu giữ được hồ sơ, giấy tờ gì liên quan đến nguồn gốc và biến động thửa đất số 10, tờ bản đồ 15, diện tích 386,9m2, địa chỉ tại xứ đồng C, thôn T, xã T, thành phố B tại UBND xã. Các bên không cung cấp được các giấy tờ liên quan đến quyền sử dụng cũng như việc chuyển nhượng thửa đất nêu trên.
Về nguồn gốc và quá trình sử dụng thửa đất số 10, tờ bản đồ số 15: từ kết quả làm việc với các bên và những người hiểu rõ nguồn gốc, quá trình sử dụng thửa đất trên cho thấy gia đình ông Hoàng Văn R (bố của ông T và ông M) có thửa đất nông nghiệp ở xứ đồng cổng Vườn, thôn T, xã T nay là thửa số 10, tờ bản đồ số 15 hiện chưa được cấp GCNQSDĐ. Thửa đất trên có nguồn gốc là đất nông nghiệp được hộ gia đình ông R mua của bà Hoàng Thị H6 người cùng thôn từ khoảng năm 1980 (việc mua bán chỉ bằng miệng). Đến năm 1992, thôn T chia ruộng cho các hộ gia đình trong thôn thì thửa đất trên nói riêng và khu vực cổng Vườn nói chung thôn không đưa vào chia ruộng để sản xuất ổn định lâu dài cho các hộ dân vì khu vực này đã hình thành đất ở của các hộ dân trong thôn.
Quá trình sử dụng thửa đất số 10, tờ bản đồ số 15 theo như các bên trình bày tại biên bản hoà giải ngày 20/7/2020 và ngày 07/8/2020 cho thấy: khoảng năm 1980, gia đình ông R mua của bà H6 khoảng 12 thước ruộng (nay là thửa số 10 có diện tích 386.9m2), việc mua bán bằng miệng. Đến khoảng năm 1984, gia đình ông R xây dựng 02 gian nhà đề ở trên một phần diện tích của thửa đất trên. Đến năm 1987, ông T lập gia đình, được ông R, bà V cho ra ở riêng tại thửa đất trên và đã xây tường bao xung quanh. Ông T trình bày năm 2014, gia đình ông thống nhất cho ông M một phần diện tích nằm trong thửa số 10 để làm nhà ở, diện tích khoảng 100m2. Còn ông M, ông P xác định từ khi cụ R và cụ V còn sống, gia đình có thống nhất cho vợ chồng ông M một nửa diện tích (nhưng sau này ông T đã sử dụng hơn một nửa nên diện tích còn lại chỉ khoảng hơn 100m2) thuộc thửa số 10 trên để làm nhà ở (việc gia đình thỏa thuận cho vợ chồng ông M đất chỉ bằng miệng, không có giấy tờ gì). Sau khi cho ông M một phần thửa đất trên, ông M có xây lại tường phía giáp với đường ngõ và trồng cây hàng năm. Năm 2003, ông M chuyển sang trồng cây keo, bạch đàn trên phần diện tích đất trên. Đến khoảng năm 2011, ông T đã ra chặt cây do ông M trồng trên phần diện tích đất trên (lý do: ông T cho ông M đất để làm nhà ở nhưng ông M không làm nhà mà trồng cây nên ông T không cho). Khoảng tháng 5/2020, gia đình ông T xây nhà trên thửa đất số 11, tờ bản đồ số 15 đã phá phần tường bao phía giáp đường ngõ do ông M xây nên dẫn tới việc ngày 07/7/2020, ông M tiếp tục xây tường bao và bắn mái tôn trên phần diện tích đất nằm trong thửa đất số 10 và xảy ra tranh chấp như hiện nay.
Trên thực tế thửa đất trên vẫn được cả ông T và ông M sử dụng. Trong đó, ông T sử dụng một phần diện tích của thửa đất số 10 khoảng từ năm 1987 liên tục đến nay và trên phần diện tích đất ông T sử dụng này có công trình nhà ở, đã bị thu hồi một phần diện tích là 6.5m2 vào năm 2019 theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đề thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình HTKT khu dân cư cạnh Bệnh viện nội tiết theo Quyết định số 1242/QĐ-UBND và 1243/QĐ-UBND cùng ngày 03/7/2019 và đã được bồi thường theo giá đất ở và công trình tài sản trên đất đối với phần diện tích đất đã thu hồi. Việc UBND xã T, xác nhận nguồn gốc đất tại Biên bản hội nghị lấy ý kiến về nguồn gốc, quá trình, sử dụng và thời điểm sử dụng đất của hộ gia đình có đất nằm trong chỉ giới thu hồi để thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình Khu dân cư C, xã T, thành phố B ngày 25/10/2018 để UBND thành phố B căn cứ ra Quyết định thu hồi và bồi thường giải phóng mặt bằng đối với phần diện tích đất 6.5m2 là hoàn toàn có căn cứ và đúng quy định. Tại biên bản hội nghị lấy ý kiến chỉ xác định nguồn gốc đất và đề nghị bồi thường cho hộ ông T đối với phần diện tích 6.5m2 đất nằm trong chỉ giới bị thu hồi của thửa đất số 10 này và công trình tài sản trên phần diện tích đất bị thu hồi chứ không xác định nguồn gốc đất đối với diện tích đất nằm ngoài chỉ giới thu hồi. Vì thực tế tại thời điểm thu hồi thửa đất chưa được cấp GCNQSDĐ nên vẫn thuộc đất do Nhà nước quản lý. Hộ ông T được bồi thường đối với phần diện tích đất này và công trình tài sản trên phần đất bị thu hồi theo nguồn gốc là sử dụng ổn định, liên tục trước năm 1993 và không có tranh chấp với ai là phù hợp (diện tích 6.5m2 đất nằm trong chỉ giới bị thu hồi đang có công trình, nhà ở phục vụ vào mục đích ở của hộ ông T). Phần diện tích đất đang tranh chấp (115.6m2) khi đó không nằm trong chỉ giới thu hồi của Nhà nước nên không thuộc diện tích được xác định nguồn gốc đất. Ông M cũng đã có thời gian sử dụng, canh tác và trồng cây lâu năm (bạch đàn, keo) trên một phần diện tích đất của thửa đất trên và việc ông T phá cây của ông M trồng trên một phần diện tích của thửa đất này năm 2011 dẫn đến tranh chấp là có thật. Ông M sử dụng phần diện tích đất này chính xác thời gian nào thì UBND xã không xác định được.
Hiện UBND xã không còn lưu được sổ bộ thuế hàng năm từ năm 1993 đến năm 2012 nên không có cơ sở xác định các biên lai nộp thuế do ông T cung cấp là của thửa đất nào. Qua kiểm tra sổ bộ thuế từ năm 2012 đến nay lưu trữ tại UBND xã, thửa đất số 10, tờ bản đồ số 15 không thuộc trường hợp phải nộp thuế phi nông nghiệp của địa phương. Thửa đất trên cũng không nằm trong diện tích đất nông nghiệp của địa phương được chia và giao đất năm 1992-1993 nên không có trong sổ mục kê và do chưa được cấp GCNQSDĐ nên không có tên trong sổ địa chính của xã. Căn cứ bản đồ đo đạc địa chính xã T năm 2004 và năm 2014, thì là thửa số 10, tờ bản đồ số 15 diện tích 386,9m2, đều ký hiệu là đất ở và có công trình nhà ở trên thửa đất.
Người thừa kế quyền và nghĩa vụ của bà Hoàng Thị T2 - chị Lương Thị T3, anh Lương Quang H5: Tòa án đã giao thông báo thụ lý và các văn bản tố tụng cho chị T3, anh H5 nhưng các đương sự trên không đến Tòa án để viết bản tự khai, không có văn bản thể hiện quan điểm, không cung cấp hồ sơ, tài liệu và tham gia hòa giải.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành thu thập một số tài liệu, chứng cứ như sau:
1. Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Y là đơn vị quản lý và lưu trữ hồ sơ đất đai trên địa bàn huyện, sau khi tra cứu tài liệu lưu trữ tại cơ quan và Phòng lưu trữ của UBND huyện đã trả lời không tìm được hồ sơ cấp giấy chứng nhận có liên quan đến thửa đất. Vụ việc trên do xã T, thành phố B (trước năm 2011 là huyện Y) đà được bàn giao sáp nhập về thành phố B từ ngày 01/01/2011, các tài liệu về đất đai liên quan đến xã T lưu trữ tại huyện Y đã bàn giao hết cho UBND thành phố B, nay huyện không còn lưu trữ nên không có cơ sở thể hiện quan điểm cũng như cung cấp các tài liệu chứng cứ.
2. Ông Hoàng Văn H7 là người biết rõ về nguồn gốc thửa đất đang tranh chấp cho biết: Ông làm công tác tại thôn T từ năm 1990 (là bảo vệ thôn) đến năm 2014 thì làm cán bộ thôn và có thời gian dài làm trưởng thôn T, ông ở gần thửa đất đang tranh chấp nên biết rất rõ về nguồn gốc thửa đất này. Thửa đất đang tranh chấp có nguồn gốc từ thửa đất nông nghiệp của cụ R mua của bà H6. Sau khi mua, ông R tự đóng gạch trên nền đất ruộng này và làm được hai gian nhà cấp 4. Khoảng năm 1988, vợ chồng ông T ra ở trên phần diện tích đất đã làm nhà. Sau đó một vài năm (ông không nhớ rõ năm nào) thì thấy vợ chồng ông M ra trồng màu, canh tác trên phần đất còn lại, khi đó cụ R và cụ V đều còn sống. Năm 2003, ông M trồng cây lâu năm là keo, bạch đàn, xung quanh phần diện tích đất ông M trồng cây được xây tường bao, một phần tường giáp với đầu hồi nhà của ông T, bây giờ vẫn còn chân tường cũ được ông M xây chồng lên để quây và lợp tôn. Khoảng năm 2011, thì anh em xảy ra tranh chấp vì ông T đã chặt hết cây trên phần đất ông M đã trồng (khi đó cây cũng lớn vì trồng từ năm 2003) nên ông M có báo chính quyền địa phương vào giải quyết, khi đó ông cũng có mặt.
3. Kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ: nguyên đơn và bị đơn đều xác định diện tích đất tranh chấp là diện tích đất có căn nhà tạm, có tường xây cao khoảng 1m, quây tôn kín và lợp tôn, theo kết quả đo đạc có diện tích là 115.6m2 đất (dài 12.44m x rộng 8.97m) thuộc thửa đất số 10, tờ bản đồ số 15, diện tích 386.9m2 tại thôn T, xã T, thành phố B.
Định giá đất ở: áp dụng khu vực 1, vị trí 3, đất ở nông thôn quy định tại bảng giá theo Quyết định số 1025/QĐ-UBND ngày 30/12/2019 của UBND tỉnh B có giá là 1.600.000 đồng/m2 x 115.6m2 =184.960.000 đồng. Trị giá đất ở chuyển nhượng tại địa phương có giá là 5.000.000 đồng/m2 x 115.6m2 = 578.000.000 đồng.
Định giá tài sản trên đất: Nhà tạm loại C, còn 85% = 970.000đ/m2 x 85% x 115.6m2 = 95.312.200 đồng.
Tổng giá trị đất và tài sản trên đất: Theo giá nhà nước là 184.960.000 đồng + 95.312.200 đồng = 280.272.200 đồng; giá theo giá chuyển nhượng tại địa phương là 578.000.000 đồng + 95.312.200 đồng = 673.312.200 đồng.
Với nội dung trên, Bản án dân sự sơ thẩm số 50/2023/TCDS-ST ngày 31/7/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang đã: căn cứ Điều 2 Luật đất đai 1993; Điều 168, 170 Luật đất đai năm 2013; Điều 163; Điều 166 của Bộ luật Dân sự. Xử: không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hoàng Văn T về việc yêu cầu ông Hoàng Văn M và bà Hoàng Thị U phải trả lại cho gia đình ông diện tích 115.6m2 đất thuộc thửa đất số 10, tờ bản đồ 15 (tờ bản đồ đo vẽ năm 2014) diện tích 386.9m2 địa chỉ tại thôn T, xã T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang và tháo dỡ toàn bộ công trình là tường bao, mái tôn trên diện tích đất này đề trả lại cho ông T nguyên hiện trạng đất ban đầu.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng cáo cho các đương sự.
Ngày 8/8/2023, anh Hoàng Văn Q đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn kháng cáo bản án, với nội dung: đề nghị xem xét sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và kháng cáo; các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Luật sư H bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông T trình bày quan điểm, phân tích đánh giá các tình tiết của vụ án và đề nghị HĐXX hủy bản án sơ thẩm do Tòa án sơ thẩm có các vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, nhận định không đúng các tình tiết của vụ án. Đó là: Tòa án sơ thẩm đã không thu thập hồ sơ địa chính thửa đất tranh chấp, như sổ mục kê, sổ địa chính các thời kỳ, đặc biệt giai đoạn 1987, 1997; vi phạm trong thẩm định (BL145 đến 148) không hợp pháp do không có cán bộ địa chính, chủ tịch UBND xã tham gia nhưng cuối biên bản lại có chữ ký của chủ tịch UBND xã, không có chữ ký của các thành viên tại từng trang nên không hợp pháp, không có giá trị, liệu có bị thay thế các trang đầu hay không; thẩm định không mô tả thửa đất, không có sơ đồ thửa đất.. .vi phạm Điều 101 BLTTDS; định giá không đúng quy định của pháp luật (BL153) không ghi thời gian bắt đầu định giá, theo quyết định thành lập Hội đồng định giá nào. Phần nhận định của bản án có phần trái pháp luật, không đúng sự thật về lời trình bày của ông T trong hồ sơ vụ án.
Anh Q đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn nhất trí với ý kiến của Luật sư H.
Ông M, bà U trình bày không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, đề nghị HĐXX giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bà H1, chị H2 đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện và kháng cáo của nguyên đơn.
Ông H4 không đồng ý với yêu cầu khởi kiện và kháng cáo của nguyên đơn, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tham gia phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến khi mở phiên tòa và tại phiên tòa, Thẩm phán, HĐXX, Thư ký đã thực hiện đúng, đủ quy định của BLTTDS, các đương sự đã thực hiện đúng các quyền nghĩa vụ theo quy định của BLTTDS. Sau khi xem xét yêu cầu kháng cáo của đại diện theo ủy quyền của ông T, phân tích nội dung, các tình tiết của vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 308 BLTTDS không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Ông T được miễn án phí dân sự phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:
[1]. Về tố tụng: tại phiên tòa phúc thẩm những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo gồm: đại diện UBND thành phố B, đại diện UBND xã T, chị Nguyễn Thị H3, anh Nguyễn Phong C, ông Hoàng Văn P, bà Hoàng Thị M1, ông Hoàng Văn C1, chị Lương Thị T3, anh Lương Quang H5 đã dược triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ hai không có lý do. HĐXX căn cứ khoản 3 Điều 296 BLTTDS tiếp tục tiến hành xét xử vụ án.
[2]. Xét kháng cáo của phía nguyên đơn, HĐXX thấy:
[2.1]. Diện tích 115.6m2 đất đang tranh chấp thuộc thửa đất số 10, tờ bản đồ 15, diện tích 386.9m2 có nguồn gốc là của gia đình cụ R mua của bà Hoàng Thị H6, việc mua bán bằng miệng, không có giấy tờ. Khoảng năm 1984, gia đình cụ R xây dựng 02 gian nhà đề ở trên một phần thửa đất nêu trên. Năm 1987, ông T lập gia đình, được cụ R và cụ V cho ra ở riêng tại thửa đất trên phần đất đã có công trình nhà và đã xây tường bao xung quanh. Năm 1992, thôn T chia ruộng cho các hộ gia đình trong thôn thì thửa đất trên nói riêng và khu vực Cổng Vườn nói chung thôn không đưa vào chia ruộng đề sản xuất ổn định lâu dài cho các hộ dân vì khu vực này đã hình thành đất ở của các hộ dân. Năm 1997, vợ chồng ông M, bà U cũng sử dụng, canh tác trên phần diện tích đất còn lại và cũng xây lại tường phía giáp với đường ngõ và trồng cây hàng năm. Năm 2003, ông M chuyển sang trồng cây keo, bạch đàn trên phần diện tích đất trên. Khoảng năm 2011, ông T ra chặt cây do ông M trồng trên phần diện tích đất trên. Trong suốt quá trình sử dụng đất, cụ R, ông T và ông M đều không kê khai việc sử dụng đất với chính quyền địa phương, không làm thủ tục để được nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. UBND xã T và thôn T không lưu giữ giấy tờ gì liên quan đến nguồn gốc thửa đất trên.
[2.2]. Ông T và đại diện theo ủy quyền của ông T trình bày thửa đất số 10 nêu trên ông mua của bà H6 người cùng thôn với giá 100.000 đồng năm 1979. Gia đình ông thống nhất cho ông M 100m2 để làm nhà, do ông M không làm nhà nên mới đòi lại đất và chặt hết cây. Sau đó lại khai khi cho ông M diện tích đất này thì vợ con ông không đồng ý. Lời khai mâu thuẫn với nhau và đều không có tài liệu chứng cứ chứng minh.
[2.3]. Các đương sự còn lại đều xác nhận thực tế từ năm 1997, vợ chồng ông M, bà U đã ra canh tác trên phần diện tích đất tranh chấp, đến năm 2003 thì bắt đầu trồng cây lâu năm và đến năm 2011, sau khi cụ V chết ông T đã chặt phá cây ông M trồng trên phần diện tích đất này dẫn đến anh em có tranh chấp. Cả ông T và ông M đều không đi kê khai hoặc đăng ký quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 10 và phần diện tích đất tranh chấp trên với Nhà nước theo quy định.
[2.4]. Những người biết rõ về nguồn gốc thửa đất đang tranh chấp và 06 người con của cụ R (là anh em ruột của ông T) đều xác định thửa đất trên là đất nông nghiệp của cụ R mua của bà Hoàng Thị B1 (còn gọi là bà H6) từ khoảng năm 1980. về mệnh giá đồng tiền nhà nước Việt Nam đang sử dụng khi đó có mệnh giá nhỏ (đồng, hào) nên số tiền 100.000 đồng thời điểm này là rất lớn so với người dân, trong khi ông T (sinh năm 1962) khi đó mới 17 tuổi, vẫn đang ở chung với cụ R và cụ V, do hai cụ nuôi nên việc trình bày của ông T như trên là không phù hợp với thực tế.
[2.5]. Qua nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ và thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm thấy: hiện tại, ông T sử dụng một phần diện tích của thửa số 10 khoảng từ năm 1987 liên tục đến nay với diện tích khoảng 271m2, trên phần diện tích đất này có công trình nhà ở, đã bị thu hồi một phần diện tích là 6.5m2 năm 2019 để thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình HTKT khu dân cư cạnh Bệnh viện N theo Quyết định số 1242/QĐ-UBND và 1243/QĐ-UBND cùng ngày 03/7/2019 và đã được bồi thường theo giá đất ở và công trình tài sản trên đất đối với phần diện tích đất đã thu hồi này.
Ông M sử dụng, canh tác và trồng cây lâu năm (bạch đàn, keo) trên một phần diện tích đất hiện đang tranh chấp 115m2 của thửa đất trên, năm 2011 hai bên tranh chấp. Do vậy, xác định thửa đất trên được cả ông T và ông M cùng sử dụng từ nhiều năm nay là có căn cứ.
[2.6]. Đối với các biên lai nộp thuế do ông T cung cấp, nội dung các biên lai không thể hiện rõ về thu của thửa đất nào, diện tích thu bao nhiêu, UBND xã T không xác định được nội dung này do không còn lưu giữ được các tài liệu liên quan. Mặt khác, UBND xã T xác định từ năm 2012 đến nay thửa đất số 10, tờ bản đồ số 15 không thuộc trường hợp phải nộp thuế phi nông nghiệp của địa phương. Thửa đất trên cũng không nằm trong diện tích đất nông nghiệp của địa phương được chia và giao đất năm 1992-1993 nên không có trong sổ mục kê và do chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên không có tên trong sổ địa chính của xã. Do vậy, không có cơ sở xác định ông T là người thực hiện nghĩa vụ thuế của thửa đất trên với nhà nước từ năm 1987 đến nay.
[2.7]. Đối với tờ trích lục thửa đất do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B cung cấp: nội dung thể hiện anh Hoàng Văn Q đang là người quản lý, sử dụng thửa đất, không xác định được sử dụng từ thời gian nào (trong khi trên thực tế là ông T và ông M sử dụng), ngoài tài liệu này không có bất cứ tài liệu nào khác chứng minh anh Q hay ông T là chủ sử dụng hợp pháp của thửa đất, thửa đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chưa được nhà nước công nhận quyền sử dụng đất.
[2.8]. Đối với yêu cầu Tòa án buộc vợ chồng ông M và bà U tháo dỡ toàn bộc công trình xây dựng trái phép trên đất: do việc ông T khởi kiện yêu cầu ông M trả lại ông 115.6m2 và tháo dỡ công trình trên đất là không có căn cứ nên không có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện này của ông T.
Với các tình tiết trên, bản án sơ thẩm xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T là có căn cứ. Tại cấp phúc thẩm phía nguyên đơn không xuất trình được chứng cứ nào mới chứng minh cho yêu cầu khởi kiện và kháng cáo của mình. Vì vậy kháng cáo của nguyên đơn không được chấp nhận.
Xét ý kiến của Luật sư H cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã có những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, nhận định không đúng sự thật nên đề nghị hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm đảm bảo thu thập chưng cứ được đầy đủ, HĐXX thấy, các vi phạm như Luật sư nêu liên quan đến việc xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản đã được Tòa án cấp sơ thẩm thực hiện theo quy định. Biên bản thẩm định, định giá không ghi thời gian bắt đầu, thời gian kết thúc, phần đầu biên bản thẩm định không ghi thành phần tham gia có địa chính và chủ tịch xã nhưng cuối biên bản có chữ ký của những người này là thiếu sót của Tòa án sơ thẩm. Tuy nhiên những thiếu sót này không ảnh hưởng đến bản chất vụ án, không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Đối với ý kiến của Luật sư H cho rằng tòa án sơ thẩm không thu thập hồ sơ địa chính thửa đất tranh chấp, như sổ mục kê, sổ địa chính các thời kỳ, HĐXX thấy Tòa án sơ thẩm đã ban hành văn bản yêu cầu UBND xã T, UBND thành phố B cung cấp toàn bộ hồ sơ liên quan đến nguồn gốc, lịch sử biến động và hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các thửa đất số 10, tờ bản đồ 15, diện tích 386,9m2 và thửa số 11, tờ bản đồ số 15, diện tích 448,6m2... Sổ mục kê, bản đồ địa chính hay tài liệu, sổ sách... (Văn bản số 424/TA ngày 19/4/2021- BL 121, 122), (Văn bản số 261/TA ngày 08/03/2022 - BL 224, 225); (Văn bản số 411/TA ngày 27/5/2022 - BL 262, 263) (Văn bản số 472/TA ngày 02/6/2022 - BL 285, 286); (Văn bản số 652/TA ngày 29/7/2022 - BL 298, 299); (Văn bản số 834/TA ngày 06/9/2022 - BL 313, 314)... Như vậy Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành đầy đủ các biện pháp để thu thập chứng cứ liên quan đến nội dung này. Vì vậy các ý kiến, đề nghị trên của Luật sự không được chấp nhận.
Phần nhận định của bản án sơ thẩm có một số nội dung trùng lặp, chưa logic, một số câu chưa đúng với trình bày của đương sự như ý kiến của Luật sư. HĐXX sơ thẩm cần nghiêm túc rút kinh nghiệm.
[4]. Về án phí dân sự phúc thẩm: căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án: ông T là người cao tuổi nên được miễn án phí dân sự phúc thẩm.
[5]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 và Điều 313 của Bộ Luật tố tụng dân sự. Xử: không chấp nhận kháng cáo của ông Hoàng Văn T. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 50/2023/DS-ST ngày 31/7/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.
2. Về án phí: ông Hoàng Văn T được miễn toàn bộ án phí dân sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 58/2024/DS-PT
Số hiệu: | 58/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 19/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về