Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 448/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 448/2023/DS-PT NGÀY 22/12/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Vào các ngày 15 tháng 12 và ngày 22 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh A mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 335/2022/TLPT-DS ngày 25 tháng 10 năm 2023 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 89/2023/DS-ST ngày 18 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc, tỉnh A bị kháng cáo, kháng nghị.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 716/2023/QĐ-PT ngày 10 tháng 11 năm 2023, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn:

1.1. Ông Huỳnh Tuấn H, sinh năm 1975.

Địa chỉ: Số A, Đường T, Phường E, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.

Nơi cư trú hiện nay: Ấp N, xã P, huyện C, tỉnh A.

1.2. Bà Lê Ngọc H1, sinh năm 1976.

Địa chỉ: Số B, Đường B, Phường A, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.

Nơi cư trú hiện nay: Ấp N, xã P, huyện C, tỉnh A.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Huỳnh Tuấn H: Bà Lê Ngọc H1 (theo văn bản ủy quyền ngày 16/02/2022).

2. Bị đơn: Ông Phạm Văn H2, sinh năm 1970.

Địa chỉ: Ấp N, xã P, huyện C, tỉnh A.

3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Trương Thị Kim M, sinh năm 1977.

Địa chỉ: Ấp N, xã P, huyện C, tỉnh A.

- Người kháng cáo: Ông Phạm Văn H2.

- Viện kiểm sát kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A.

(Các đương sự có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà Lê Ngọc H1 trình bày với tư cách là nguyên đơn và cũng là người đại diện theo ủy quyền của ông Huỳnh Tuấn H về yêu cầu tranh chấp quyền sử dụng đất với Ông Phạm Văn H2 như sau:

Bà Lê Ngọc H1 căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, số vào sổ cấp giấy 02378 ngày 28/6/2016 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp cho bà Phan Nguyễn Nhất A, sinh năm 1989, nơi cư trú: số 439/47/4, C, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh đối với thửa đất số 5374, tờ bản đồ số 3, diện tích 116m2 loại đất ONT, đất tọa lạc tại ấp N, xã P, huyện C, tỉnh A. Ngày 07/9/2020, bà Nhất A chuyển nhượng cho ông Huỳnh Tuấn H và vợ là bà Lê Ngọc H1 thửa đất 5374. Đến ngày 28/9/2020, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện C cập nhật trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Nhất A là chuyển nhượng cho ông Huỳnh T (T1) H, sinh năm 1975, địa chỉ tại 1 T, Phường E, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh và vợ là bà Lê Ngọc H1, sinh năm 1976, địa chỉ tại 2 B, Phường A, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh theo hồ sơ số 040430.CN.001.

Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chiều ngang thửa đất 5374 là 05 m, chiều dài là 01 cạnh 23m, 01 cạnh là 24m. Sau khi nhận chuyển nhượng thửa đất 5374, bà H1 và ông H tiến hành xây dựng nhà vào tháng 11/2020. Căn cứ trích lục bản đồ địa chính thửa đất ngày 28/8/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện C, bà H1 và ông H sẽ xây dựng hết phần đất thuộc 5374 nhưng khi tiến hành xây dựng nhà, bên ông Phạm Văn H2 không cho xây dựng tới ranh đất của bà H2 với ông Phạm Văn H2, bà H2 và ông H đã xây dựng nhà ở kiên cố chưa đến ranh của thửa đất 5374. Diện tích đất mà bà H2 và ông H khi khởi kiện với ông Phạm Văn H2 là 2,5m2. Vách ngoài, phía sau nhà bà H2 và ông H chưa trát xi măng được, bà H2 và ông H kiện ông Phạm Văn H2 trả phần đất bị ông Phạm Văn H2 ngăn cản không cho sử dụng có hình thể là hình tam giác vuông, loại đất thổ thuộc thửa 5374, tờ bản đồ số 3, đất tại ấp N, xã P, huyện C, tỉnh A.

Sau khi cơ quan chuyên môn tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ, đo đạc thẩm định giá thửa đất 5374. Căn cứ vào Mãnh trích đo bản đồ địa chính số 54 ngày 18/5/2023 của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đ chi nhánh B được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện C duyệt thể hiện phần đất bên ông H và bà H2 kiện đòi ông Phạm Văn H2 trả tại 02 vị trí là vị trí B và vị trí D, diện tích đất theo trích đo địa chính thể hiện tại vị trí B có diện tích là 02m2 và vị trí D là 0,4m2, trên đất tranh chấp có để dụng cụ và phế liệu của ông Phạm Văn H2. Bà H2 còn yêu cầu ông Phạm Văn H2 trả cho đủ diện tích trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà bà H2 và ông H đã đứng tên.

Đối với chứng thư thẩm định giá số 197 ngày 02/6/2023 của Công ty cổ phần T3, tại vị trí đất tranh chấp thuộc thửa 5374 loại đất ONT có giá là 1.680.000 đồng/01m2.

Tại Tòa án cấp sơ thẩm, bà Lê Ngọc H1 có trình bày là không đồng ý với trích đo của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đ chi nhánh B và giá đất theo thẩm định giá của Công ty T3 nhưng bà H1 không yêu cầu đo đạc và thẩm định giá lại thửa đất 5374.

Ông Phạm Văn H2 là bị đơn trình bày:

Ông H2 là người đứng tên thửa đất 916, tờ bản đồ số 3, diện tích 2.171m2, loại đất thổ, ông H2 được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1996. Giáp với đất của ông H2 là đất của mẹ vợ do em vợ Trương Thanh T2 đứng tên. Bà H2 mua đất của ông T2 và xây nhà xong thì ông Phạm Văn H2 mới biết. Ranh giới thửa đất 916 với thửa đất ông Trương Thanh T2 là có cột bê tông và cột bê tông này cũng là ranh giới thửa đất 5374 của bà H2 với thửa đất 916 của ông. Bà H2 kiện yêu cầu ông Phạm Văn H2 trả đất, ông H2 không đồng ý trả phần đất nào cho bà Lê Ngọc H1 dù nhiều hay ít, ông Phạm Văn H2 không thấy kiểm tra toàn bộ thửa đất 917, tờ bản đồ số 3, hơn nữa khi thửa 917 tách thửa thì ông Phạm Văn H2 không có ký giáp ranh cho nên ông H2 không đồng ý trả đất cho ông Huỳnh Tuấn H và bà Lê Ngọc H1.

Căn cứ yêu cầu khởi kiện của bà H1 và ông Tuấn H, lúc đầu khởi kiện là yêu cầu ông H1 trả 2,5m2, sau khi có trích đo địa chính thì bà H1 và ông H yêu cầu ông H1 trả 2,4m2, loại đất ONT, tờ bản đồ số 3, ông H1 không đồng ý trả đất vì ông H1 không có lấn đất của bà H1 và ông H. Trên phần đất bà H1 đang tranh chấp ông H1 có xây dựng 01 cái chòi lợp thiếc để chứa máy móc, vật dụng, có rào bằng lưới B 40, cột cây vuông (đang để dụng cụ và phế liệu của ông Phạm Văn H2), ông H2 không đồng ý tháo dỡ cái chòi và đem các dụng cụ và phế liệu ra khỏi chòi để trả cho bà H2 và ông H 2,4m2 đất ONT.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Trương Thị Kim M:

Bà M là vợ ông Phạm Văn H2 trình bày thống nhất với lời trình bày của ông Phạm Văn H2 tại phiên tòa bà M không có ý kiến gì thêm.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 89/2023/DS-ST ngày 18 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện cần Giuộc, tỉnh A đã căn cứ vào khoản 9 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a, c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Các Điều 175, 189 và Điều 191 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 4, Điều 5; Khoản 2 Điều 6, Điều 166 của Luật đất đai năm 2013; điểm a Khoản 2 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lê Ngọc H1 và ông Huỳnh Tuấn H đòi ông Phạm Văn H2 trả quyền sử dụng đất.

Buộc ông Phạm Văn H2 và bà Trương Thị Kim M tháo dỡ 01 cái chòi lợp thiếc có rào lưới B 40, cột cây vuông; đem máy móc, vật dụng, dụng cụ và phế liệu của ông Phạm Văn H2 ra khỏi phần đất để trả cho bà Lê Ngọc H1 và ông Huỳnh Tuấn H 02m2 đất ONT, thuộc thửa đất 5374, tờ bản đồ số 3, đất tại ấp N, xã P, huyện C, tỉnh A.

Vị trí và diện tích phần đất trên tại vị trí B của Mảnh trích đo địa chính số số 54 ngày 18/5/2023 của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đ chi nhánh 2, được Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai tại huyện C phê duyệt. Phần đất có tứ cận như sau: Bắc giáp phần còn lại của thửa 5374 dài 2,89m; Nam giáp phần còn lại của thửa 5374 dài 2,94m; Đông giáp phần còn lại của thửa 5374 dài 01m và Tây một phần cạnh của thửa 917 dài 0,42m.

2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Ngọc H1 và ông Huỳnh Tuấn H đòi ông Phạm Văn H2 trả 0,4m2 đất ONT, một phần thửa đất 917, tờ bản đồ số 3 đất tại ấp N, xã P, huyện C, tỉnh A.

3. Chi phí tố tụng:

Buộc ông Phạm Văn H2 và bà Trương Thị Kim M trả cho bà Lê Ngọc H1 số tiền 11.500.000 đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, khoản tiền trên hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

4. Án phí:

Bà Lê Ngọc H1 và ông Huỳnh Tuấn H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, bà Lê Ngọc H1 và ông Huỳnh Tuấn H có nộp tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm là 500.000 đồng theo biên lai thu số 0004602 ngày 10/6/2022 chuyển sang án phí 300.000 đồng trả lại cho bà Lê Ngọc H1 và ông Huỳnh Tuấn H 200.000 đồng; ông Phạm Văn H2 và bà Trương Thị Kim M phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo, quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án và thời hiệu thi hành án theo Luật Thi hành án dân sự.

Ngày 28/8/2023, bị đơn là ông Phạm Văn H2 kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án dân sự sơ thẩm, không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Ngày 15/9/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A kháng nghị toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh A xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng hủy án, giao về Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vì những sai sót ở cấp sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, người kháng cáo không rút yêu cầu kháng cáo, đại diện viện kiểm sát không rút kháng nghị, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, không cung cấp, nộp thêm tài liệu, chứng cứ mới và vẫn giữ nguyên ý kiến như đã trình bày ở cấp sơ thẩm.

Bà Lê Ngọc H1 là nguyên đơn trình bày: Năm 2020, vợ chồng bà nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà Nhất A, bà và ông H đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất 5374, với diện tích 116m2 nhưng diện tích đo đạc thực tế chỉ có 112,6m2 nên bà xác định phần đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng đất của ông bà, bà đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm. Đối với khu D có diện tích 0,4m2 theo Mãnh trách đo thuộc quyền sử dụng đất của ông H3 là không đúng, nhưng bà đồng ý theo bản án dân sự sơ thẩm.

Ông Phạm Văn H2 trình bày: Nguyên đơn khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà Nhất A không tiến hành đo đạc diện tích thực tế, không yêu cầu ông xác định ranh đất. Ranh đất đã được xác định bằng các trụ ranh là các cột bê tông hiện nay vẫn còn, phần đất tranh chấp ông đang sử dụng thuộc quyền sử dụng đất của ông nên ông đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A tham gia phiên tòa phát biểu:

- Ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử phúc thẩm nghị án, Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa, thành viên Hội đồng xét xử phúc thẩm, Thư ký phiên tòa tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Kháng cáo của ông Phạm Văn H2 thực hiện đúng quy định tại các Điều 272, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về nội dung và thời hạn kháng cáo, đủ căn cứ và hợp pháp để xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A thực hiện đúng quy định tại các Điều 279, 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về nội dung và thời hạn kháng nghị, đủ căn cứ và hợp pháp để xem xét theo trình tự phúc thẩm.

- Quan điểm về việc giải quyết vụ án:

Ông Phạm Văn H2 kháng cáo đề nghị không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A kháng nghị toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị hủy án giao về cấp sơ thẩm xét xử lại.

Xét thấy:

Đất của nguyên đơn ông Huỳnh Tuấn H và bà Lê Ngọc H1 thuộc thửa 5374, đất của bị đơn ông Phạm Văn H2 thuộc thửa 916. Căn cứ mảnh trích đo địa chính số 54 ngày 18/5/2023 của Công ty TNHH Đ chi nhánh 2 đo vẽ, được Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai tại huyện C phê duyệt, thể hiện phần đất tranh chấp có diện tích 2,4m2 có một phần thuộc thửa 5374 của nguyên đơn, cụ thể tại vị trí B diện tích 02m2 thuộc thửa 5374, phần còn lại tại vị trí D diện tích 0,4m2 thì thuộc thửa 917.

Trong quá trình Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án, bị đơn ông Phạm Văn H2 cho rằng giáp với thửa đất 916 của ông H2 là đất của mẹ vợ do em vợ ông là Trương Thanh T2 đứng tên. Theo ông H2 trình bày thì nguyên đơn ông H và bà H2 mua đất của ông T2, ranh giới thửa đất 916 của ông H2 với thửa đất ông Trương Thanh T2 là có cột bê tông và cột bê tông này cũng là ranh giới thửa đất 5374 của bà H2 và ông H với thửa đất 916 của ông H2.

Tuy nhiên, theo hồ sơ thể hiện thì ông H và bà H2 mua đất của bà Phan Nguyễn Nhất A. Như vậy nguồn gốc thửa đất 5374 bà Phan Nguyễn Nhất A do đâu mà có, có phải bà Nhất A nhận chuyển nhượng từ ông Trương Thanh T2, sau đó mới chuyển nhượng lại cho ông H và bà H2 hay không. Mặt khác, theo mảnh trích đo địa chính số 54 ngày 18/5/2023 của Công ty TNHH Đ chi nhánh 2 đo vẽ, thể hiện phần đất thửa 5374 của ông H, bà H2 có hiện trạng chồng lấn qua thửa 917, mà thửa 917 có nguồn gốc của ông Trương Thanh T2 (theo Giấy chứng nhận ông T2 được cấp ngày 15/10/2010 thì thửa 917 có diện tích 975m2). Hồ sơ thể hiện ông Trương Thanh T2 có chuyển nhượng cho ông Nguyễn Thanh H4 diện tích 245m2 của thửa 917, ông H4 được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ngày 13/5/2020.

Từ những điểm nêu trên, để giải quyết toàn diện vụ án, cần thu thập chứng cứ để làm rõ một số vấn đề: Về nguồn gốc thửa đất 5374 có phải trước đây của ông Trương Thanh T2 chuyển nhượng cho bà Phan nguyễn Nhất A1 hay không; ranh giới giữa thửa 5374 và thửa 916 của ông H2 có phải là cột bê tông như ông H2 trình bày hay không; khi ông T2 chuyển nhượng đất có tiến hành ký xác định ranh với ông H2 hay không; ý kiến của bà Phan Nguyễn Nhất A như thế nào về hiện trạng thực tế thửa đất 5374 trước khi bà Nhất A chuyển nhượng cho ông H, bà H2; ý kiến của ông Trương Thanh T2 cũng như của ông Nguyễn Thanh H4 như thế nào về ranh giới các thửa đất. Từ đó mới có cơ sở xác định việc ông H2 có lấn chiếm đất của ông H, bà H2 hay không và trong trường hợp cần thiết cũng cần phải đưa thêm những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng, cũng là để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.

Từ những phân tích trên đề nghị Hội đồng xét xử: Không chấp nhận kháng cáo của ông Phạm Văn H2, chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A tỉnh A.

Căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, hủy bản án dân sự sơ thẩm, giao hồ sơ về Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ, vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến và quan điểm của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của ông Phạm Văn H2 và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A thực hiện đúng về hình thức, nội dung và thời hạn theo quy định tại các Điều 272, 273, 279, 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 nên vụ án được xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Xét kháng cáo của ông Phạm Văn H2, thấy rằng:

[2.1] Ông Huỳnh Tấn H5 và bà Lê Ngọc H1 có thửa đất 5374, tờ bản đồ số 3, diện tích theo giấy chứng nhận quyền 116m2, loại đất ONT, đất tọa lạc tại ấp N, xã P, huyện C, tỉnh A. Nguồn gốc thửa đất là của bà Phan Nguyễn Nhất A chuyển nhượng cho bà H1 và ông H5 vào ngày 07/9/2020.

Liền kề với thửa đất 5374 của bà H1, ông H5 là thửa đất 916, tờ bản đồ số 3, diện tích 2.171m2, loại đất thổ của ông Phạm Văn H2, ông H2 được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1996, nguồn gốc thửa đất là của cha mẹ để lại.

[2.2] Căn cứ Mãnh trích đo bản đồ địa chính số 54 ngày 18/5/2023 của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đ1 được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện C ký duyệt thể hiện phần đất tranh chấp gồm 02 vị trí: vị trí B có diện tích là 02m2 thuộc một phần thửa 5374 của ông Huỳnh Tấn H5 và bà Lê Ngọc H1, vị trí D có diện tích là 0,4m2 thuộc một phần thuộc thửa đất 917 của ông Nguyễn Thanh H4.

[2.3] Theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc, tỉnh A vào ngày 21/12/2022 thể hiện hiện trạng phần đất tranh chấp thì ông Phạm Văn H2 có làm 01 cái chòi lợp thiếc để chứa máy móc, vật dụng, có hàng rào bằng lưới B40, cột cây vuông, ông H2 đang để dụng cụ và phế liệu.

[3] Bà H2 cho rằng sau khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất 5374 từ bà Nhất A, bà Lê Ngọc H1 và ông Huỳnh Tuấn H xây dựng nhà ở trên đất vào năm 2020. Trong quá trình giải quyết vụ án, bà H1 xác định khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có tiến hành đo đạc diện tích thực tế, không có yêu cầu các chủ đất liền kề xác định ranh đất (trong đó có ông Phạm Văn H2). Nguyên đơn chỉ căn cứ theo diện tích trong giấy chứng nhận quyền sử đất và trích lục bản đồ địa chính đối với thửa đất 5374 để khởi kiện ông H2 yêu cầu ông H2 trả lại đất.

Ông Phạm Văn H2 cho rằng phần đất tranh chấp thuộc một phần của thửa đất 916 thuộc quyền sử dụng của ông, ông đang quản lý sử dụng đất. Thửa đất 5374 bà H2 và ông H nhận chuyển nhượng từ bà Nhất A có nguồn gốc là đất của mẹ vợ ông do em vợ ông là Trương Thanh T2 đứng tên, ranh giới thửa đất 916 của ông H2 với thửa đất ông Trương Thanh T2 trước đây đã được xác định là các cột bê tông và cột bê tông này cũng là ranh giới thửa đất 5374 của bà H2 và ông H với thửa đất 916 của ông H2, hiện nay các cột bê tông vẫn còn.

[4] Thấy rằng trong quá trình giải quyết tại Tòa án cấp sơ thẩm, phần đất tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn là phần giáp ranh giữa thửa đất 5374 của bà H2, ông H và thửa 916 của ông H2 nhung Tòa án cấp sơ thẩm chỉ tiến hành đo đạc thửa đất 5374 của bà H2, ông H, không tiến hành đo đạc thửa 916 của ông Phạm Văn H2, Tòa án chỉ căn cứ theo ranh bản đồ địa chính để xác định vị trí B có diện tích 02m2 của ông H, bà H2, còn đối với vị trí D có diện tích 0,4m2 Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của ông H, bà H2 lý do theo mãnh trích đo thuộc đất của ông Nguyễn Thanh H4.

Tại biên bản phiên tòa ngày 18 tháng 8 năm 2023 Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng Mãnh trích đo bản đồ địa chính và mãnh trích lục bản đồ là khác nhau, vị trí thửa 916 và nhà trên thửa 5374 không tiếp giáp nhau nên không đo thửa 916, chỉ tiến hành đo đạc thửa đất 5374 của nguyên đơn là không phù hợp. Thấy rằng thửa 916 do ông H2 sử dụng tiếp giáp với thửa 5374 của nguyên đơn đối với tranh chấp ranh giữa hai thửa đất, Tòa án cấp sơ thẩm phải tiến hành đo đạc diện tích thực tế hai thửa đất, sau khi xác định phần đất tranh chấp của nguyên đơn hoặc bị đơn, các đương sự còn có quyền và nghĩa vụ đi điều chỉnh lại diện tích quyền sử dụng đất đúng theo diện tích sử dụng thực tế.

[5] Căn cứ theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vào ngày 07 tháng 9 năm 2020 thì ông H và bà H2 nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa 5374 của bà Phan Nguyễn Nhất A. Bị đơn cho rằng thửa đất 5374 bà H2 và ông H nhận chuyển nhượng từ bà Nhất A có nguồn gốc là đất của mẹ vợ ông do em vợ ông là Trương Thanh T2 đứng tên. Như vậy nguồn gốc thửa đất 5374 bà Phan Nguyễn Nhất A do đâu mà có, có phải bà Nhất A nhận chuyển nhượng từ ông Trương Thanh T2, sau đó mới chuyển nhượng lại cho ông H và bà H2 hay không. Mặt khác, theo mảnh trích đo địa chính số 54 ngày 18/5/2023 của Công ty TNHH Đ chi nhánh 2 đo vẽ, thể hiện phần đất thửa 5374 của ông H, bà H2 có hiện trạng chồng lấn qua thửa 917, mà thửa 917 có nguồn gốc của ông Trương Thanh T2 (theo Giấy chứng nhận ông T2 được cấp ngày 15/10/2010 thì thửa 917 có diện tích 975m2). Hồ sơ thể hiện ông Trương Thanh T2 có chuyển nhượng cho ông Nguyễn Thanh H4 diện tích 245m2 của thửa 917, ông H4 được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ngày 13/5/2020.

Như vậy, trong quá trình giải quyết ở Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án chưa thu thập chứng cứ để làm rõ một số vấn đề: Về nguồn gốc thửa đất 5374 trước đây là của ai? Có phải của ông Trương Thanh T2 chuyển nhượng cho bà Phan Nguyễn Nhất A hay không? Ranh giới giữa thửa 5374 và thửa 916 của ông H2 có phải là cột bê tông như ông H2 trình bày hay không? Khi ông T2 chuyển nhượng đất có tiến hành ký xác định ranh với ông H2 hay không? Ý kiến của bà Phan Nguyễn Nhất A như thế nào về hiện trạng thực tế thửa đất 5374 trước khi bà Nhất A chuyển nhượng cho ông H, bà H2, ranh đất giữa thửa 5374 và thửa 916 được xác định như thế nào? Ý kiến của ông Trương Thanh T2 và ông Nguyễn Thanh H4 như thế nào về ranh giới thửa đất 5374 với thửa đất 916? [6] Theo Mãnh trích đo phần đất tranh chấp tại vị trí D có diện tích 0,2m2 thuộc một phần thuộc thửa đất 917 của ông Nguyễn Thanh H4 nhưng quá trình giải quyết không đưa ông Nguyễn Thanh H4 vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là thiếu sót. Phần đất khu D Tòa án căn cứ vào ranh bản đồ xác định thuộc đất của ông H4 nhưng ông H2 là người trực tiếp quản lý sử dụng, vậy ông H4 có thửa đất nào liền kề với thửa đất của nguyên đơn không để xác định phần đất tại vị trí D có diện tích 0,2m2 của ông H4. Tòa án chưa thu thập ý kiến của của ông Nguyễn Thanh H4 như thế nào đối với phần đất tranh chấp theo Mãnh trích đo thuộc quyền sử dụng đất của ông H4, trong vụ án này ông H4 có yêu cầu gì không.

Ngoài ra tại vị trí C có diện tích là 44m2 là phần đất bà H2, ông H xây nhà theo Mãnh trích đo thuộc quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Thanh H4, mặc dù các đương sự không tranh chấp tại vị trí này nhưng Tòa án cấp sơ thẩm cũng cần thu thập tài liệu, chứng cứ của cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để làm rõ vì sao đất của bà H2, ông H xây nhà ở nhưng theo Mãnh trích đo lại thuộc đất của ông Nguyễn Thanh H4, từ đó có cơ sở để xác định phần đất tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn là của ai.

[7] Từ những phân tích trên, thấy rằng Tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ theo ranh bản đồ để xác định phần đất tranh chấp tại vị trí B là của nguyên đơn và vị trí D là của ông Nguyễn Thanh H4 là chưa xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ. Với những thiếu sót của Tòa án cấp sơ thẩm Tòa án cấp phúc thẩm không thể khắc phục được nên hủy bản án dân sự sơ thẩm giao hồ sơ về Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại.

[8] Xét kháng cáo của ông Phạm Văn H2 là có căn cứ nên chấp nhận.

[9] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án dân sự sơ thẩm là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10] Về án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng: Được quyết định khi vụ án được giải quyết lại.

[11] Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Phạm Văn H2 không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Phạm Văn H2.

Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A.

1. Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 89/2023/DS-ST ngày 18 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc, tỉnh A.

2. Giao hồ sơ vụ án về Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng: Được quyết định khi vụ án được giải quyết lại.

4. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Phạm Văn H2 không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả cho ông Phạm Văn H2 số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007404 ngày 13/7/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cần Giuộc, tỉnh A.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

9
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 448/2023/DS-PT

Số hiệu:448/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Long An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về