Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 44/2022/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NGẠN - TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 44/2022/DS-ST NGÀY 18/05/2022 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 18 tháng 05 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 17/2021/TLST-DS, ngày 24 tháng 02 năm 2021 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2022/QĐST-DS ngày 01/4/2022 và Quyết định hoãn phiên toà số: 15/QĐ-TA ngày 25/4/2022 giữa các bên đương sự:

* Nguyên đơn: Dương Văn Đ, sinh năm 1979 (Có mặt).

- Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn Đ, xã Đ, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang.

* Bị đơn:

1/ Tơ Văn Q, sinh năm 1985 (Vắng mặt).

2/ Đặng Thị M, sinh năm 1986 (Có mặt).

- Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn Đ, xã Đ, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang.

* Người có quyền và nghĩa vụ liên quan:

1/ Dương Văn Khải, sinh năm 2000.

2/ Dương Văn Chức, sinh năm 2004.

- Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn Đ, xã Đ, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang.

(Anh Dương Văn Khải, Dương Văn Chức uỷ quyền cho anh Dương Văn Đồng theo văn bản uỷ quyền ngày 12/11/2021).

3/ UBND huyện Lục Ngạn do ông Mai Văn Dương là đại diện theo ủy quyền (Theo văn bản ủy quyền ngày 10/01/2022). (Vắng mặt, có đơn xin vắng mặt).

4/ Hạt kiểm lâm huyện Lục Ngạn do ông Đào Văn Tuấn là đại diện theo ủy quyền). (Vắng mặt, có đơn xin vắng mặt).

5/ UBND xã Đ do ông Giáp Văn Phong - PCT UBND xã Đ là đại diện theo ủy quyền (Theo văn bản uỷ quyền ngày 24/01/2022. (Vắng mặt, có đơn xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, đơn bổ sung và những lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết tại Toà án cũng như tại phiên toà nguyên đơn anh Dương Văn Đ đồng thời là người đại diện theo uỷ quyền của Dương Văn Khải, Dương Văn Chức trình bày:

Anh và vợ chồng anh Tơ Văn Q, chị Đặng Thị M có quan hệ hàng xóm. Vợ chồng anh có diện tích đất rừng 19.019 m2, được cấp GCNQSD đất số vào sổ cấp GCNQSĐ đất: CH00464, Quyết định cấp số: 355/QĐ-UBND (H) cấp ngày 2/4/2018, diện tích được cấp 19.019 m2, tại lô 17, tờ bản đồ số 17, mục đích sử dụng: Rừng sản xuất, Thời hạn sử dụng: Tháng 1/2068 (Địa chỉ thửa đất: Khe Sàng, Thôn Đ, xã Đ, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang). Khi giao có đại diện thôn, xã Đ và Hạt kiểm lâm huyện Lục Ngạn chỉ ranh giới. Đến năm 2020 gia đình anh đến canh tác, sử dụng, trồng cây cối thì vợ chồng anh Quân, chị Mỵ đến nhận khoảng 0,6ha nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình anh, anh yêu cầu vợ chồng anh Quân, chị Mỵ không được sử dụng phần đất đã được nhà nước cấp cho vợ chồng anh thì vợ chồng anh Quân, chị Mỵ vẫn tiếp tục sử dụng và trồng cây bạch đàn trên đất. Gia đình anh đã có đơn đề nghị UBND xã Đ giải quyết nhưng UBND xã Đ không giải quyết được.

Tại đơn khởi kiện anh đề nghị Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn giải quyết buộc vợ chồng anh Quân, chị Mỵ phải trả lại diện tích đất nằm trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình anh là 0,6 ha. Sau khi thẩm định, đo đạc thực tế thì diện tích tranh chấp giữa gia đình anh và gia đình anh Quân, chị Mỵ = 3220,8m2. Nay anh đề nghị Toà án giải quyết buộc vợ chồng anh Quân, chị Mỵ phải trả lại gia đình anh theo diện tích đo đạc = 3220,8m2 đất vì diện tích đất này nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên vợ chồng anh. Phần đất có lối đi qua nằm trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhà anh có diện tích = 62 m2, anh không yêu cầu Toà án giải quyết.

Đối với những cây bạch đàn vợ chồng anh Quân, chị Mỵ trồng trên đất nay chưa đến tuổi thu hoạch, anh sẽ trả lại giá trị cây cối cho vợ chồng anh Quân, chị Mỵ.

Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai và những lời khai tiếp theo tại Toà án cũng như tại phiên toà bị đơn chị Đặng Thị M trình bày:

Chị là vợ anh Tơ Văn Q, chị kết hôn với anh Tơ Văn Q vào năm 2007. Sau khi kết hôn xong chị về gia đình anh Quân làm dâu chung sống và tách khấu ra ở riêng, đến năm 2010 thì vợ chồng chị có nên khu vực rừng phát một diện tích rừng để trồng sắn. Sau khi trồng sắn xong gia đình tiếp tục trồng keo và thu hoạch xong keo, nay lại trồng bạch đàn (Phần tranh chấp). Đối với diện tích đất đang tranh chấp với gia đình anh Đồng vợ chồng chị cũng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bản thân vợ chồng chị cũng chưa được nhà nước cấp cho diện tích đất rừng nào để vợ chồng chị canh tác.

Nay gia đình anh Đồng khởi kiện đề nghị Toà án giải quyết buộc vợ chồng chị trả lại diện tích đất rừng = 3220,8 m2. Chị đề nghị Cơ quan có thẩm quyền phải giao đất rừng cho vợ chồng chị để vợ chồng chị có đất canh tác sử dụng thì chị sẽ trả lại gia đình anh Đồng diện tích đất gi đình anh Đồng đang khởi kiện. Nêu không giao đất cho chị thì vợ chồng chị không trả lại anh Đồng. Chị đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp luật để bảo vệ quyền lợi cho vợ chồng chị.

Đối với bị đơn anh Tơ Văn Q: Tòa án đã giao cho anh Tơ Văn Q các văn bản tố tụng, vợ anh Tơ Văn Q là chị Đặng Thị M nhận hộ để anh Quân được biết việc anh Dương Văn Đ khởi kiện đòi quyền sử dụng đất đối với vợ chồng anh chị nhưng anh Quân không đến Toà án làm việc. Toà án không thu thập được lời khai của anhTơ Văn Q.

Tại bản tự khai,biên bản ghi lời khai và những lời khai tiếp theo tại Toà án những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày:

1. Hạt Kiểm lâm huyện Lục Ngạn trình bày:

Việc giao đất, giao rừng cho gia đình anh Dương Văn Đ được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục. Việc giao đất được tiến hành trực tiếp ngoài thực địa giữa bên giao đất và bên nhận đất.

Ông Dương Văn Đ, bà Tống Thị Canh (Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang) được cấp GCNQSD đất có số vào sổ cấp GCNQSĐ đất: CH00464, Quyết định cấp số: 355/QĐ-UBND (H) cấp ngày 2/4/2018, diện tích được cấp 19.019 m2, tại lô 17, tờ bản đồ số 17, mục đích sử dụng: Rừng sản xuất, Thời hạn sử dụng: Tháng 1/2068 (Địa chỉ thửa đất: Khe Sàng, thôn Đ, xã Đ, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang).

Sau khi xem xét thẩm định đối chiếu với sơ đồ giao đất giao rừng thì thấy:

* Theo số liệu của Văn phòng đo đất thì:

- Diện tích đất ông Dương Văn Đ đang sử dụng thực tế là: 15.690 m2.

Thiếu 3.329 m2 so với GCNQSD đất anh Đồng được cấp.

- Diện tích đất tranh chấp giữa anh Dương Văn Đ và Tơ Văn Q, Đặng Thị M là: 3154m2 + 66,8 m2 = 3220,8 m2.

- Không có việc giao chồng chéo giữa đất gia đình anh Dương Văn Đ và gia đình anh Tơ Văn Quân

- Việc sử dụng không đúng diện tích là do các gia đình tự ý sử dụng không đúng ranh giới, diện tích được giao

- Theo số liệu của Văn phòng đo đất thì: Phần đất tranh chấp 3220,8m2 nằm trong GCNQSD đất cấp cho gia đình anh Dương Văn Đ.

Phần diện tích đất có tăng hay giảm so với GCNQSD đất có nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân là do sai số về đo đạc.

2. UBND huyện Lục Ngạn do ông Mai Văn Dƣơng là đại diện theo ủy quyền trình bày: Ông Dương Văn Đ, bà Tống Thị Canh được cấp GCNQSD đất có số vào sổ cấp GCNQSD đất CH00464, Quyết định cấp số: 355/QĐ-UB ngày 2/8/2018 mang tên hộ ông Dương Văn Đ, bà Tống Thị Canh, diện tích 19.019 m2 (Địa chỉ thửa đất: Khu vực Khe Sàng, thôn Đ, xã Đ, Lục Ngạn, Bắc Giang). Chưa trừ phần lối đi. Theo kết quả đo đạc của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thì thấy:

- Diệnt ích ông Dương Văn Đ sử dụng thực tế là: 15.690 m2.

- Diện tích tranh chấp là 3220,8 m2.

Diện tích có chênh lệch so với GCNQSD có nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân là do sai số về đo đạc.

Vậy đề nghị Toà án căn cứ vào quy định của pháp luật giải quyết vụ án, đảm bảo quyền lợi cho các bên.

3. UBND xã Đ do ông Giáp Văn Phong là đại diện theo ủy quyền trình bày:

Ông Dương Văn Đ, bà Tống Thị Canh được cấp GCNQSD đất có số vào sổ cấp GCNQSD đất CH00464, Quyết định cấp số: 355/QĐ-UB ngày 2/8/2018 mang tên hộ ông Dương Văn Đ, bà Tống Thị Canh, diện tích 19.019 m2 (Địa chỉ thửa đất: Thôn Đ, xã Đ, Lục Ngạn, Bắc Giang). Chưa trừ phần lối đi. Theo kết quả đo đạc của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thì thấy:

- Diện tích ông Dương Văn Đ sử dụng thực tế là: 15.690 m2.

- Diện tích tranh chấp là 3220,8 m2.

Diện tích có chênh lệch so với GCNQSD có nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân là do sai số về đo đạc.

Vậy đề nghị Toà án căn cứ vào quy định của pháp luật giải quyết vụ án, đảm bảo quyền lợi cho các bên.

Tại biên bản xem xét thẩm định ngày 15/12/2021 xác định nhƣ sau:

Ông Dương Văn Đ, bà Tống Thị Canh (địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang) được cấp GCNQSD đất được cấp GCNQSD đất có số vào sổ cấp GCNQSĐ đất: CH00464, Quyết định cấp số:

355/QĐ-UBND (H) cấp ngày 2/4/2018, diện tích được cấp 19.019 m2, tại lô 17, tờ bản đồ số 17, mục đích sử dụng: Rừng sản xuất, Thời hạn sử dụng: Tháng 1/2068 (Địa chỉ thửa đất: Thôn Đ, xã Đ, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang).

- Xác định diện tích gia đình anh Dương Văn Đ sử dụng thực tế là:

15.690 m2.

- Xác định diện tích xảy ra tranh chấp = 3220,8 m2 (Phần tranh chấp giáp ranh giới đất nhà ông Chu Văn Thơm và Tơ Văn Dậu và giáp phần đất anh Dương Văn Đ đang sử dụng).

Trên phần diện tích đất tranh chấp trồng cây bạch đàn có đường kính gốc từ 5 -10cm, mật độ 2000cây/01 ha, tỷ lệ 5m2/1 cây. Cây bạch đàn chưa đến thời ký thu hoạch.

Tại biên bản định giá tài sản lập ngày 15/12/2021 xác định giá trị tài sản nhƣ sau:

Diện tích đất tranh chấp ông Tơ Văn Q, chị Đặng Thị M đang sử dụng = 3220,8m2 x 50.000đ/m2 = 161.040.000đ;

Tỷ lệ 5m2/01 cây bạch đàn, có 3220,8 m2 trồng cây bạch đàn, trên đất có 644 cây bạch đàn (đường kính gốc 05 – 10 cm) x 109.000đ/ cây = 70.196.000.000đ;

Tổng cộng giá trị tài tài sản tranh chấp là: 231.236.000đ (Hai trăm ba mươi sáu nghìn đồng.

Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Ngạn tham gia phiên toà đã phát biểu ý kiến về thủ tục tố tụng của Thẩm phán từ khi thụ lý vụ án, Hội đồng xét xử, Thư ký, các đương sự tại phiên toà và đường lối giải quyết vụ án cụ thể sau:

+ Thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên toà đúng quy định của pháp luật: Việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý tới thời điểm này thấy rằng Thẩm phán thụ lý đúng thẩm quyền tại các Điều 26, 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Nguyên đơn, bị đơn chị Đặng Thị M, người liên quan, người đại diện theo ủy quyền của những người có quyền và nghĩa vụ liên quan đều chấp hành đúng quy định của BLTTDS, Bị đơn anh Tơ Văn Q chưa chấp hành quy định của BLTTDS.

+ Điều luật áp dụng: Các Điều 4, Điều 5, Điều 100, Điều 166, Điều 170, Điều 202 và Điều 203 Luật Đất đai năm 2013; Các Điều 138, Điều 166, Điều 175, Điều 176, Điều 257, Điều 260, Điều 261, Điều 264 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 149, Điều 156, Điều 165, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 và Điều 280 BLTTDS năm 2015; Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016.

Xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Dương Văn Đ.

+ Buộc hộ anh Tơ Văn Q, chị Đặng Thị M phải trả lại cho hộ ông Dương Văn Đ diện tích đất lâm nghiệp = 3220,8m2, trị giá = 161.040.000 đồng; Trong giấy CNQSD đất của ông Dương Văn Đ, được UBND huyện Lục Ngạn cấp số vào sổ cấp GCNQSĐ đất: CH00464, Quyết định cấp số:

355/QĐ-UBND (H) cấp ngày 2/4/2018, tại lô 17, tờ bản đồ số 17, mục đích sử dụng: Rừng sản xuất, Thời hạn sử dụng: Tháng 1/2068 (Địa chỉ thửa đất: Thôn Đ, xã Đ, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang).

Hộ anh Dương Văn Đ được sở hữu và sử dụng Toàn bộ số cây bạch đàn trên diện tích đất 3220, 8m2.

Buộc hộ gia đình ông Dương Văn Đ phải trích trả trả cho vợ chồng anh Tơ Văn Q, chị Đặng Thị M giá trị cây bạch đàn trên diện tích đất 3220,8 m2.

+ Về chi phí thẩm định, định giá, kết quả trích đo: Chi phí thẩm định, định giá = 5.300.000 đồng + Tiền chi phí lấy kết quả trích đo = 3.500.000 đồng. Tổng số = 8.800.000 đồng.

Buộc hộ anh Tơ Văn Q, chị Đặng Thị M phải trả lại cho hộ anh Dương Văn Đ tổng số tiền chi phí thẩm định, định giá và kết quả trích đo = 8.800.000 đồng (Tám triệu tám trăm nghìn đồng).

+ Án phí: Anh Tơ Văn Q, chị Đặng Thị M thuộc diện hộ cận nghèo nên được miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả hỏi và tranh tụng tại phiên toà. Sau khi thảo luận và nghị án Hội đồng xét xử Toà án nhân dân huyện Lục Ngạn nhận định:

[1] Thủ tục tố tụng: Ông Mai Văn Dương đại diện theo ủy quyền cho UBND huyện Lục Ngạn; ông Đào Văn Tuấn đại diện theo ủy quyền Hạt kiểm lâm huyện Lục Ngạn, ông Giáp Văn Phong đại diện theo ủy quyền UBND xã Đ đều xin vắng mặt tại các buổi tiếp cận công khai chứng cứ, hoà giải và cho đến khi xét xử xong vụ án.

(Anh Dương Văn Khải, Dương Văn Chức đều ủy quyền cho ông Dương Văn Đồng theo văn bản ủy quyền ngày 30/6/2020).

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã giao các văn bản tố tụng cho anh Tơ Văn Quân đúng theo quy định tại khoản 5 Điều 177 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Ngày 25/4/2022 Hội đồng xét xử sơ thẩm hoãn phiên tòa lần thứ nhất vì anh Quân vắng mặt không lý do, đồng thời triệu tập lần 2, tống đạt văn bản tố tụng cho anh Tơ Văn Q nhưng anh Quân vẫn vắng mặt.

Tại công văn trả lời về thông tin xuất nhập cảnh số: 5461/QLXNC-P5 Bộ công an cung cấp anh Tơ Văn Q không có thông tin xuất nhập cảnh. Như vậy bản thân anh Tơ Văn Q được biết Toà án thụ lý việc khởi kiện “Đòi quyền sử dụng đất” của anh Dương Văn Đ nhưng cố tình vắng mặt tại các phiên họp, phiên hòa giải, phiên xét xử gây khó khăn cho Tòa án trong việc giải quyết vụ án, đồng thời Toà án cũng không tiến hành lấy được lời khai của anh Quân.

Căn cứ Điều 134; Điều 138 BLDS; Điều 85, Điều 227, Điều 228, Điều 229 BLTTDS năm 2015. Hội đồng xét xử quyết định tiếp tục đưa vụ án ra giải quyết theo quy định.

[2] Quan hệ tranh chấp: Anh Dương Văn Đ khởi kiện đòi quyền sử dụng đất đối với vợ chồng anh Tơ Văn Q, chị Đặng Thị M (Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn Đ, xã Đ, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang). Xác định đây là vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” theo quy định tại khoản 9 Điều 26 và Điều 35, Điều 39 BLTTDS thuộc thẩm quyền giải quyết tại Toà án nhân dân huyện Lục Ngạn, nên được xem xét về nội dung vụ án.

[3] Nội dung vụ án: Hộ anh Dương Văn Đ được cấp GCNQSD đất có số vào sổ cấp GCNQSD đất CH00464, Quyết định cấp số: 355/QĐ-UB ngày 2/8/2018 mang tên hộ anh Dương Văn Đ, chị Tống Thị Canh, diện tích 19.019 m2 (Địa chỉ thửa đất: Thôn Đ, xã Đ, Lục Ngạn, Bắc Giang). Sau khi được cấp GCNQSD đất thì gia đình anh Dương Văn Đ khai thác, sử dụng diện tích đất được cấp GCNQSD đất thì gia đình anh Tơ Văn Q, chị Đặng Thị M có sử dụng sang phần diện tích đất được nhà nước giao cho gia đình anh nên anh đã viết đơn đề nghị UBND xã Đ giải quyết nhưng không giải quyết được.

Do vậy anh Dương Văn Đ tiếp tục khởi kiện đề nghị Toà án buộc vợ chồng anh Tơ Văn Q, chị Đặng Thị M phải trả lại diện tích hiện nay đang tranh chấp theo kết quả đo đạc thực tế = 3220,8m2 nằm trong GCNQSD đất số vào sổ cấp GCNQSD đất CH00464, Quyết định cấp số: 355/QĐ-UB ngày 2/8/2018 mang tên hộ anh Dương Văn Đ, chị Tống Thị Canh. (Địa chỉ thửa đất: Thôn Đ, xã Đ, Lục Ngạn, Bắc Giang).

Tại phiên toà, nguyên đơn anh Dương Văn Đ vẫn giữa nguyên yêu cầu khởi kiện đề nghị Toà án buộc bị đơn anh Tơ Văn Q, chị Đặng Thị M phải trả lại diện tích theo kết quả trích đo đạc = 3220,8m2, gia đình anh sẽ trả lại giá trị cây bạch đàn chưa đến thời kỳ thu hoạch trên diện tích 3220,8 m2 mà gia đình anh Quân, chị Mỵ trồng. Bị đơn chị Đặng Thị M không nhất trí, các đương sự không thoả thuận được với nhau.

Căn cứ vào các tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, căn cứ vào ý kiến của Hạt kiểm lâm huyện Lục Ngạn là cơ quan trực tiếp giao đất và những người liên quan khác.

Hội đồng xét xử xét thấy: Hộ anh Dương Văn Đ, chị Tống Thị Canh được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào sổ cấp GCNQSD đất CH00464, Quyết định cấp số: 355/QĐ-UB ngày 2/8/2018 mang tên anh ông Dương Văn Đ, chị Tống Thị Canh, diện tích 19.019 m2 (Địa chỉ thửa đất: Thôn Đ, xã Đ, Lục Ngạn, Bắc Giang). Bị đơn chị Đặng Thị M, Tơ Văn Q không được cấp GCNQSD đất đối với phần đất tranh chấp. Việc anh Quân, chị Mỵ sử dụng đất nhà anh Đồng được cấp là do vợ chồng chị ra ở riêng chưa được cấpgiao đất lâm nghiệp để sản xuất.

Hội đồng xét xử sau khi xem xét, đối chiếu các góc cạnh, sơ đồ diện tích đất được cấp cho hộ anh Dương Văn Đ và ý kiến của Hạt kiểm lâm huyện Lục Ngạn xác định theo như kết quả đo đạc của Văn phòng đo đất huyện Lục Ngạn thì diện tích tranh chấp = 3220,8m2 hiện nay anh Quân, chị Mỵ sử dụng nằm trong GCNQSD đất cấp cho hộ anh Dương Văn Đ. Do vậy anh Dương Văn Đ khởi kiện đòi vợ chồng Tơ Văn Q, Đặng Thụ Mỵ phải trả lại diện tích đất vợ chồng anh Quân, chị Mỵ sử dụng = 3220,8 m2 là có căn cứ chấp nhận.

Do hiện nay trên phần đất tranh chấp gia đình anh Tơ Văn Q, chị Đặng Thị M đã trồng bạch đàn theo tỷ lệ 5m2/01 cây = 644 cây bạch đàn (đường kính gốc từ 05 - 10 cm), chưa đến thời kỳ thu hoạch trị giá = 70.196.000 đồng, cần giao cho hộ anh Dương Văn Đ được quyền sở hữu và sử dụng số cây bạch đàn này. Tuy nhiên để đảm bảo quyền lợi cho gia đình anh Quân, chị Mỵ được hưởng lợi số cây bạch đàn do gia đình anh trồng, cần buộc hộ anh Dương Văn Đ phải trả lại giá trị cây bạch đàn = 70.196.000 đồng trên diện tích đất 3220,8m2 là có căn cứ phù hợp với Điều 257; Điều 261 và Điều 264 BLDS 2015.

[5] Án phí: Do yêu cầu của anh Dương Văn Đ là nguyên đơn khởi kiện được chấp nhận nên không phải chịu án phí, còn đối với bị đơn vợ chồng anh Tơ Văn Q, chị Đặng Thị M không được chấp nhận phải chịu án phí theo quy định. Nhưng hộ anh Tơ Văn Q, chị Đặng Thị M thuộc hộ cận nghèo, sống ở vùng có điều kiện kinh tế khó khăn theo quy định của Chính phủ. Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Toà án miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm cho vợ chồng anh Tơ Văn Q, chị Đặng Thị M.

[6] Chi phí tố tụng: Anh Dương Văn Đ đã phải tạm ứng chi cho việc thẩm định và định giá tài sản và kết quả trích đo = 8.800.000 đồng. Do yêu cầu khởi kiện của anh Dương Văn Đ được chấp nhận nên buộc vợ chồng anh Tơ Văn Q, chị Đặng Thị M phải chịu số tiền chi phí thẩm định, định giá và kết quả trích đo = 8.800.000 đồng để trả lại cho hộ anh Dương Văn Đ.

[7] Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn, người liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 4, Điều 5, Điều 100, Điều 166, Điều 202 và Điều 203 Luật Đất đai năm 2013;

Áp dụng Điều 138, Điều 158; Điều 166, Điều 175, Điều 176, Điều 257, Điều 261, Điều 264 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

Áp Dụng Khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 91, Điều 93, Điều 155; Điều 156, Điều 157; Điều 158; Điều 163; Điều 164; Điều 165, Điều 166; Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 và Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Toà án;

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Dương Văn Đ.

1.1. Buộc hộ anh Tơ Văn Q, chị Đặng Thị M phải trả cho hộ anh Dương Văn Đ diện tích đất = 3220,8 m2, trị giá = 162.680.000đ trong GCNQSD đất có số vào sổ cấp GCNQSĐ đất: CH00464, Quyết định cấp số: 355/QĐ-UB ngày 2/8/2018 mang tên hộ anh Dương Văn Đ, chị Tống Thị Canh (Địa chỉ thửa đất: Thôn Đ, xã Đ, Lục Ngạn, Bắc Giang). Có các góc cạnh cụ thể như sau: (57 + 49,6 + 16,9 + 17,9 + 12,1 + 11,9 + 11,6 + 4,9 + 2,4 + 7,5 + 10,9 + 30,4).

Hộ anh Dương Văn Đ được sở hữu và sử dụng 644 cây bạch đàn có đường kính gốc từ 5 -10cm trên diện tích 3220,8 m2 có trị giá = 70.196.000 đồng.

Buộc hộ anh Dương Văn Đ phải trả cho hộ anh Tơ Văn Q, chị Đặng Thị Mỵ giá trị 644 cây bạch đàn = 70.196.000 đồng (Có sơ đồ mảnh trích đo dịa chính số: 31/2021 kèm theo)

2. Án phí: Miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm cho anh Tơ Văn Q, chị Đặng Thị M.

3. Chi phí tố tụng: (Chi phí cho hội đồng thẩm định, định giá tài sản và chi phí đo đạc): Buộc anh Tơ Văn Q, chị Đặng Thị M phải trả cho hộ anh Dương Văn Đ tổng số tiền chi phí xem xét thẩm định, định giá tài sản và kết quả trích đo = 8.800.000 đồng (Tám triệu tám trăm nghìn đồng) Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật, đến thời hạn thanh toán, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án không thi hành án hoặc thi hành án không đầy đủ thì phải chịu lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm trả tiền trên số tiền chậm trả tại thời điểm thanh toán.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 44/2022/DS-ST

Số hiệu:44/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Ngạn - Bắc Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 18/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về