TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 347/2023/DS-PT NGÀY 15/06/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 15 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 440/2022/TLDS-PT ngày 03 tháng 10 năm 2022 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số 25/2022/DS-ST ngày 19 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ bị kháng cáo, kháng nghị.Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1326/2023/QĐ-PT ngày 26/5/2023 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ông Hà Văn N, sinh năm 1952 (có mặt).
2. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1956 (có mặt).
Cùng cư trú tại: Số F, khu vực L, phường T, quận T, thành phố Cần Thơ.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Luật sư Huỳnh Thảo L, Văn phòng L2 thuộc đoàn luật sư tỉnh A (có mặt).
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1952; Cư trú tại: Số F, khu vực L, phường T, quận T, thành phố Cần Thơ (vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền bị đơn: ông Nguyễn Như H1, sinh năm 1951; Cư trú tại: D T, phường C, quận N, thành phố Cần Thơ (theo Giấy ủy quyền ngày 05/12/20222 - có mặt).
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Phạm Thị N1, sinh năm 1974 (vắng mặt).
2. Bà Phạm Thị M, sinh năm 1977 (vắng mặt).
3. Bà Phạm Thị H2, sinh năm 1978 (vắng mặt).
4. Ông Phạm Phát Đ, sinh năm 1988 (vắng mặt).
Cùng cư trú tại: Khu V, phường T, quận T, thành phố Cần Thơ.
5. Bà Phạm Thị Mỹ H3, sinh năm 1980; Cư trú tại: Số F, Lộ D, khóm B, phường V, thị trấn L, huyện C, Đài Loan (vắng mặt).
6. Ông Phạm Quang K, sinh năm 1972; Cư trú tại: 108/7/11 T, phường A, quận B, thành phố Cần Thơ (vắng mặt).
- Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Hà Văn N và bà Nguyễn Thị H.
- Viện kiểm sát kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nội dung vụ án theo đơn khởi kiện được tóm tắt như sau:
Nguyên đơn ông Hà Văn N và bà Nguyễn Thị H đang đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa số 1365, tờ bản đồ số 05, tọa lạc tại khu vực L, phường T, quận T, thành phố Cần Thơ, do Ủy ban nhân dân quận T cấp ngày 03/6/2013. Thửa đất của nguyên đơn giáp ranh 02 mặt với thửa đất số 591, tờ bản đồ số 05, phần đất tọa lạc tại khu vực L, phường T, quận T, thành phố Cần Thơ thuộc quyền sử dụng đất của bị đơn bà Nguyễn Thị B. Hiện nay, phần mái nhà của bà Nguyễn Thị B có lấn sang phần đất của ông N và bà H phía bên hông và phía sau khoảng 01 (một) mét trên không gian chạy dài theo vị trí giáp ranh đất với tổng diện tích khoảng 48,2m2. Ông N, bà H đang chuẩn bị xây dựng cơ sở, đã có nhiều lần yêu cầu bà B tháo dỡ phần mái nhà nhưng bà B không đồng ý.
Vì vậy, ông N, bà H khởi kiện yêu cầu giải quyết buộc bà B phải tháo dỡ phần mái nhà đã lấn sang phần đất của ông, bà là 01 (một) mét trên không gian với tổng diện tích khoảng 48,2m2, đồng thời trả lại phần đất cho ông, bà để vợ chồng ông bà tiến hành xây dựng cơ sở trên phần đất trên.
Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn bà Nguyễn Thị B trình bày:
Thửa đất số 591, tờ bản đồ số 05 có diện tích 830m2, trong đó loại đất: Thổ 300m2 + LNK 530m2, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: 000257 do Ủy ban nhân dân huyện T (cũ) cấp ngày 12/08/1998 cho chồng bà là ông Phạm Văn K1 đại diện hộ đứng tên. Thửa đất nêu trên là gia đình bà nhận chuyển nhượng của ông Thái Hoàng  và bà Thái Thị Kim L1, vào năm 1998.
Lúc gia đình bà nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông  và bà L1 thì ông N và bà H chưa mua đất của ông K. Sau khi ông N, bà H mua đất xong thì đã xây dựng lên 01 nhà máy nhỏ, phần đất còn lại gia đình bà L1 bán cho ông K vào năm 2013, lúc gia đình bà L1 chuyển nhượng cho ông K thì bà có ký giáp ranh tứ cận. Khi ông K chuyển nhượng lại cho ông N, bà H thì họ lại phát sinh tranh chấp với bà. Phần đất của gia đình bà và của ông N, bà H nhận chuyển nhượng có nguồn gốc là của 01 người. Gia đình bà đã nhận chuyển nhượng trước với diện tích 830m2 và đã sử dụng ổn định, không phát sinh tranh chấp. Ông ngon và bà H nhận chuyển nhượng sau do ông K chuyển nhượng lại. Trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình bà có diện tích là 830m2, nay qua đo đạc theo sự chỉ ranh của ông N, bà H thì đất của gia đình bà chỉ còn 539,4m2, tức mất 290,6m2. Phần đất của bà sử dụng đủ diện tích nhưng trong quá trình ông N, bà H mua đất thì hai ông bà đã tự chỉ ranh cho cán bộ đo đạc nên làm mất diện tích đất của bà quá nhiều (mất 290.6m2). Vì vậy, bà không đồng ý ký tứ cận cho ông N, bà H nên họ đã khởi kiện bà. Do đó, bà đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa sơ thẩm, ông N và bà H xác định phần đất tranh chấp có diện tích là 43,9m2 tại vị trí (B), (C) trên Bản trích đo địa chính số 92/TTKTTNMT ngày 20/8/2020 của Trung tâm K2. Ông N và bà H yêu cầu bà B phải tháo dỡ phần mái che, hàng rào sắt và bồn nước theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 19/7/2022 mà bị đơn đã xây dựng trên phần đất tranh chấp, đồng thời trả lại phần đất nêu trên cho ông bà.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 25/2022/DS-ST ngày 19 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ đã quyết định:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn Hà Văn N và Nguyễn Thị H về việc buộc bị đơn Nguyễn Thị B phải tháo dỡ các mái che, hàng rào sắt, bồn nước để trả lại phần đất tranh chấp có diện tích là 43,9m2 cho các nguyên đơn.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về quyền thi hành án, chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo của các bên đương sự theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 30/8/2022, nguyên đơn ông Hà Văn N và bà Nguyễn Thị H có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm; yêu cầu hủy hoặc sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Cũng trong ngày 30/8/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ ra Quyết định kháng nghị phúc thẩm đề nghị sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên toà phúc thẩm:
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn Luật sư Huỳnh Thảo L trình bày: Chúng tôi thống nhất với quan điểm kháng nghị của Viện kiểm sát. Về nguồn gốc thửa đất đã được làm rõ như nội dung Bản án sơ thẩm. Khi ông K được cấp GCNQSDĐ đã có đo đạc thực tế và có bà B kí giáp ranh. Còn bị đơn không có tài liệu nào chứng minh được việc khi được cấp GCNQSDĐ có đo đạc, mà chỉ là kê khai đại trà. Bà B xây nhà trước nguyên đơn và chỉ xây nhà từ trụ đá cắm mốc làm ranh đã có từ trước, bà B cũng đã thừa nhận việc này. Tòa án cấp sơ thẩm đã không xem xét toàn bộ chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nhận định chủ quan, không có căn cứ. Căn cứ vào kết quả ủy thác tư pháp của TANDCC tại Thành phố Hồ Chí Minh, Sở Tài nguyên môi trường thành phố C đã trả lời phần đất tranh chấp trước đây được cấp trong GCNQSDĐ của ông K, ông K đã chuyển nhượng toàn bộ cho ông N, bà H. Nên, có căn cứ để thấy rằng phần đất tranh chấp là thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông N, bà H. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ.
Đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Nguyễn Như H1 trình bày: Phần tranh chấp là phần ranh đất, nếu so sánh phần đất giữa hai bên, phần đất của bị đơn là ít hơn mà lại thiếu nhiều hơn. Phần đất bị đơn đã dùng từ năm 1990, đến năm 1998 thì được cấp GCNQSDĐ và sử dụng ổn định cho đến nay là hơn 30 năm. Bị đơn bà B đã xây nhà, cất mái che và sử dụng từ đó đến nay. Khi nguyên đơn mua đất là mua lại của người thứ 3, việc có cọc trụ cắm ranh đất là mới cắm. Khi nguyên đơn ông N, bà H xây nhà kho đã tự bỏ ra khoảng trống là mái nhà của bị đơn, trước đây nguyên đơn cho rằng đó là để phù hợp với quy định phòng cháy chữa cháy nhưng tại phiên tòa hôm nay lại cho rằng để có hư hỏng thì tiện cho việc sửa chữa là những lời trình bày bất nhất. Việc Sở T trả lời trong công văn là không có căn cứ do bị đơn đã mua đất, xây nhà và sử dụng đất từ trước khi nguyên đơn tới. Nên đây là sự chồng lấn. Từ những căn cứ trên, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ, giữ nguyên Bản án sơ thẩm Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án phúc thẩm, thư ký đã tuân thủ đúng quy định pháp luật. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; bảo đảm cho các đương sự tham gia phiên tòa thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Theo bản trích đo số 92 thì diện tích đất thực tế của nguyên đơn và bị đơn đều thiếu so với GCNQSDĐ. Nên phải căn cứ vào thực tế sử dụng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án để giải quyết tranh chấp. Việc cấp GCNQSDĐ của bà B là chưa qua đo đạc, còn ông N, bà H trước khi mua từ ông K thì ông K đã đo đạc trên thực tế, bà B cũng đá ký giáp ranh đồng ý với việc đo đạc trên. Việc ông N, bà H yêu cầu bà B tháo dỡ phần mái che, thùng tôn nước lấn chiếm sang không gian đất của ông bà là có căn cứ. Việc Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào việc diện tích đất thực tế thiếu nhiều hay ít để làm cơ sở quyết định phần đất thuộc về ai là chưa đánh giá toàn diện, khách quan các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ, sửa Bản sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, ý kiến của các đương sự, quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ thụ lý và giải quyết vụ án là đúng quy định pháp luật. Quyết định kháng nghị phúc thẩm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ; Đơn kháng cáo của nguyên đơn ông Hà Văn N, bà Nguyễn Thị H trong hạn luật định và hợp lệ nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[1.2] Tại phiên tòa phúc thẩm, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt đã có lời khai trong hồ sơ vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Theo những tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện:
Thửa đất số 1365, tờ bản đồ 05, diện tích 3.026,1m2 trước đây là của ông Phạm Quang K nhận chuyển nhượng từ ông Thái Hoàng  và bà Cao Thị Tuyết M1, ông K được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 02107 ngày 11/4/2013. Trước khi ông K được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì có đo đạc thực tế, lúc đó bà B có chứng kiến và ký giáp ranh để ông K làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó ông K chuyển nhượng hết thửa 1365 cho ông Hà Văn N và bà Nguyễn Thị H; ông N, bà H được chỉnh lý sang tên tại trang 04 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 25/4/2013. Ông N, bà H làm thủ tục cấp lại và được Ủy ban nhân dân quận T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH 02203 ngày 03/6/2013, thửa 1365 tờ bản đồ 05, diện tích 3.026,1m2. Theo bản trích đo địa chính số 92/TTKTTNMT ngày 20/8/2020 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và môi trường thành phố K2 (viết tắt là Bản trích đo số 92), thì thửa 1365 của ông N có diện tích thực tế là 2.913,4m2, thiếu 112,7m2 so với giấy chứng nhận được cấp. Nếu cộng diện tích ông N yêu cầu bị đơn trả lại là 43,9m2 tại vị trí (B), (C) Bản trích đo số 92 thì đất ông N vẫn có tổng diện tích 2957,3m2, vẫn thiếu 68,8m2 so với giấy chứng nhận được cấp.
Liền kề thửa đất số 1365 của ông N, bà H là đất của hộ gia đình bà Nguyễn Thị B, thửa đất số 591, tờ bản đồ số 05 có diện tích 830m2 (300m2 đất T và 530m2 đất LNK) được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất số 5572 ngày 31/12/1990 do ông Phạm Văn K1 (chồng bà B, đã chết) đứng tên. Đến ngày 12/8/1998, ông Phạm Văn K1 được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000257 do ông Phạm Văn K1 đại diện hộ gia đình đứng tên. Nguồn gốc thửa đất số 591 do ông K1, bà B nhận chuyển nhượng từ ông Thái Hoàng  và bà Thái Thị Kim L1 vào khoảng năm 1991. Theo bản trích đo địa chính số 92/TTKTTNMT ngày 20/8/2020 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và môi trường thành phố K2, thì thửa 591 của hộ bà B có diện tích thực tế 556m2, thiếu 274m2. Nếu cộng diện tích ông N yêu cầu trả lại là 43,9m2 tại vị trí (B), (C) (Bản trích đo số 92) là 599,2m2, thì đất của bà B vẫn còn thiếu 230,8m2 so với giấy chứng nhận được cấp.
Như vậy, các bên đương sự thực tế sử dụng đất đều thiếu so với giấy chứng nhận được cấp. Xét thấy, để có cơ sở xem xét đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì cần xem xét, đánh giá về nguồn gốc, quá trình sử dụng thực tế của các bên đối với phần đất và quyền sử dụng đất mà các bên đã được Nhà nước công nhận.
[2.2] Căn cứ Công văn số 106/TTKTTNMT-KTNV ngày 29/3/2023 của Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố C về việc cung cấp thông tin thửa đất thì “phần đất tranh chấp có diện tích 43,9m2 [phần (B) và (C) trên Bản trích đo địa chính số 92/TTKTTNMT ngày 20 tháng 8 năm 2020] thuộc thửa số 1365 của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BM 372096, số vào sổ cấp GCN CH02107 được Ủy ban nhân dân huyện T cấp cho ông Phạm Quang K ngày 11 tháng 4 năm 2013”. Tại phần IV của GCNQSDĐ của ông K về những thay đổi sau khi cấp giấy chứng nhận có nội dung “chuyển nhượng hết diện tích thửa đất cho ông Hà Văn N sinh năm 1952, … và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1956, …” được Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện T xác nhận ngày 25/4/2013. Như vậy, thì phần đất tranh chấp trên hiện thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BN843643 được Ủy ban nhân dân quận T cấp cho ông Hà Văn N và bà Nguyễn Thị H ngày 03 tháng 6 năm 2013.
[2.3] Xét Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông N, bà H thì thấy: Tại bút lục số 156 thể hiện, Trước khi ông K được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã lập Biên bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 27/3/2013. Trong biên bản này, những người sử dụng liền kề đều có ký giáp ranh, trong đó có bà B và chính bà B cũng đã thừa nhận việc này tại bản tự khai (BL số 277) cũng như tại phiên tòa sơ thẩm. Như vậy, khi ông N, bà H nhận chuyển nhượng toàn bộ phần diện tích từ ông K và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phần diện tích này đã được đo đạc chính xác trên thực tế.
Đối với hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà B thì thấy: không có tài liệu nào thể hiện việc trước khi cấp Giấy có sự đo đạc thực tế, những người sử dụng liền kề thửa đất này cũng không ký giáp ranh, chỉ có Giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất năm 1990, đơn xin đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 16/7/1998 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000257 ngày 12/8/1998.
Vì vậy mặc dù đất của ông N và bà B đều thiếu so với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp, nhưng ông N có căn cứ rõ ràng dựa vào việc đo đạc thực tế, còn bà B chỉ được cấp đại trà trên cơ sở đơn xin đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 16/7/1998.
[2.4] Mặt khác, ông Phạm Quang K là người chuyển nhượng đất cho ông N cũng xác định: khi ông nhận chuyển nhượng đất từ ông  thì bà B là người sử dụng liền kề có chứng kiến và ký giáp ranh để ông làm giấy chứng nhận. Khi ông chuyển nhượng lại đất cho ông N thì có cắm ranh là trụ đá do chủ cũ cắm sát vách tường nhà của bà B và có vết sơn do ông làm dấu.
Bút lục số 120 còn thể hiện, tại Biên bản hòa giải tại phường T, quận T ngày 13/3/2014, bà B xác định phần đất của bà với thửa đất của ông N có ranh sẵn, các trụ ranh này vẫn còn. Bà B là người xây dựng nhà trước thời gian ông N nhận chuyển nhượng và đã sử dụng ổn định, không phát sinh tranh chấp. Bà chỉ xây dựng trên phần đất từ vị trí ranh đất mà ông K, ông N xác định và tại phiên tòa sơ thẩm, bà cũng đã xác định nội dung này. Chứng tỏ, bà B có biết vị trí ranh đất từ trước và xây dựng tường nhà đến sát ranh đất là các trụ đá, là hết phần diện tích đất của bà.
Như vậy, phần đất của ông N, bà H với phần đất phía bà B đã có ranh rõ ràng từ trước khi ông N, bà H được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ranh đất này vẫn còn tồn tại sát vách tường nhà bà B cho đến bây giờ. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng mặc dù 03 trụ ranh đá được cắm theo thể hình chữ L hiện tại đã mất đi 01 trụ, do hiện nay các trụ ranh đã không còn đủ nên không thể căn cứ vào trụ ranh để xác định ranh giới thửa đất theo như sự thỏa thuận giữa các bên đây là chưa xem xét đầy đủ và toàn diện chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Cần phải căn cứ vào các tài liệu mà các bên đã thống nhất ranh trước khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để xác định phần đất tranh chấp này là của ai mới đúng quy định.
[2.5] Từ những phân tích trên có thể xác định: Phần đất từ vách tường nhà bà B về phía đất của ông N, bà H là không thuộc quyền sử dụng đất của hộ bà B, nên phần diện tích 43.9m2 tại các vị trí (B) và (C) trên Bản trích đo địa chính số 92/TTKTTNMT ngày 20/8/2020 của Trung tâm K2 thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông N, bà H. Ông N, bà H yêu cầu bà B phải tháo dỡ phần mái che, hàng rào sắt và bồn nước theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 19/7/2022 mà bà B đã xây dựng trên phần đất tranh chấp, đồng thời trả lại phần đất nêu trên là có căn cứ.
[3] Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng đất của nguyên đơn và bị đơn đều thiếu so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp, trong đó đất của bị đơn thiếu nhiều hơn đất của nguyên đơn nên tuyên xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hà Văn N và bà Nguyễn Thị H là không có căn cứ. Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ, kháng cáo của nguyên đơn là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về án phí và chi phí tố tụng:
- Án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn bà Nguyễn Thị B phải chịu nhưng được miễn do thuộc trường hợp người cao tuổi theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên ông Hà Văn N và bà Nguyễn Thị H không phải chịu án phí.
- Chi phí tố tụng: Tổng chi phí qua 04 lần xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là 24.775.000 đồng. Bị đơn đã tạm ứng 3.500.000 đồng nên phải nộp tiếp 21.275.000 đồng để trả lại cho nguyên đơn.
[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ và kháng cáo của nguyên đơn ông Hà Văn N và bà Nguyễn Thị H; Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 25/2012/DS-ST ngày 19 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ.
Áp dụng Điều 166 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 166, Điều 170 của Luật đất đai năm 2013; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn ông Hà Văn N và bà Nguyễn Thị H: Buộc bị đơn bà Nguyễn Thị B phải tháo dỡ, di dời các mái che, hàng rào sắt, bồn nước theo Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 19/7/2022 mà bị đơn đã xây dựng trên phần đất tranh chấp, cụ thể:
- Mái che bên hông nhà bà B ngang 0,85m dài 12,6m so với vách tường nhà bà B - Mái che phía sau nhà bà B một đầu 0,1m (bên trái từ ngoài nhìn vào) và một đầu 0,5m (bên phải từ ngoài nhìn vào), dài 16,43m so với vách tường nhà bà B;
- Có cửa rào chắn lối đi làm bệ đỡ cho bồn nước trên phần đất tranh chấp.
2. Trả lại phần đất tranh chấp có diện tích là 43,9m2 tại vị trí (B) và (C) trên Bản trích đo địa chính số 92/TTKTTNMT ngày 20/8/2020 của Trung tâm K2 (có kèm theo Bản án) cho các nguyên đơn.
3. Về án phí và chi phí tố tụng:
- Án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn bà Nguyễn Thị B được miễn.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên ông Hà Văn N và bà Nguyễn Thị H không phải chịu án phí.
- Chi phí tố tụng: Tổng chi phí qua 04 lần xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là 24.775.000 đồng. Bị đơn đã tạm ứng 3.500.000 đồng nên phải nộp tiếp 21.275.000 đồng để trả lại cho nguyên đơn.
4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án được quyền tự nguyện thi hành án, thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 347/2023/DS-PT
Số hiệu: | 347/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 15/06/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về