Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 334/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 334/2023/DS-PT NGÀY 21/07/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

 Ngày 21 tháng 7 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 151/2023/TLPT-DS ngày 24 tháng 4 năm 2023, về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản, đòi lại tài sản”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 13/2023/DS-ST ngày 09 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 294/2023/QĐ-PT ngày 06 tháng 6 năm 2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: 1. Đặng Thị Kim C, sinh năm: 1969;

Địa chỉ: Ấp T, xã L, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp.

2. Lê Kim Đ, sinh năm: 1975;

Địa chỉ: Ấp T, xã L, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Đặng Thị Kim C, ông Lê Kim Đ là anh Nguyễn Phước T, sinh năm: 1977; (Có mặt) Địa chỉ: Khóm 3, thị trấn C, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp.

- Bị đơn: Dương Văn H, sinh năm: 1976;

Địa chỉ: Số 121, T, Phường 2, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

Người đại diện theo ủy quyền của anh H là chị Lý Thu T, sinh năm 1991. (Có mặt) Địa chỉ: Số 539, âp B xã Tân Phú, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Đặng T K, sinh năm: 1977; (Có mặt) Địa chỉ: Khóm 5, thị trấn C, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp.

2. Lê Văn D, sinh năm 1989; (Vắng mặt) Địa chỉ: Khóm 3, thị trấn C, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp - Người kháng cáo: Anh Dương Văn H là bị đơn trong vụ án.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 - Nguyên đơn chị Đặng Thị Kim C và Người đại diện hợp pháp anh Nguyễn Phước T trình bày:

Ngày 12/02/2017 do chỗ quen biết nên chị C cho anh Dương Văn H vay số tiền gốc là 130.000.000 đồng để giải quyết công việc gia đình, khi vay anh H hẹn sau 15 ngày sẽ trả (có làm biên nhận). Sau khi đến hẹn trả tiền, anh H hẹn nhiều lần nhưng đến nay vẫn chưa trả lại số tiền trên cho chị C.

Nay, chị C yêu cầu cá nhân anh H trả số tiền 130.000.000 đồng và lãi suất theo quy định là 0,83%/tháng, tính lãi từ ngày viết biên nhận nợ là ngày 12/02/2017 đến khi xét xử.

Chị C thống nhất giảm 50% số tiền lãi cho anh H trên mức lãi suất 0,83%/tháng. Đồng thời thống nhất thời gian tính lãi từ ngày 12/3/2017 đến khi xét xử.

- Nguyên đơn anh Lê Kim Đ và Người đại diện hợp pháp anh Nguyễn Phước T trình bày:

Ngày 23/02/2017 do chỗ quen biết nên anh Đ cho anh Dương Văn H vay số tiền gốc là 100.000.000 đồng để giải quyết công việc gia đình, khi vay anh H hẹn sau 15 ngày sẽ trả (có làm biên nhận). Sau khi đến hẹn trả tiền, anh H hẹn nhiều lần nhưng đến nay vẫn chưa trả lại số tiền trên cho anh Đ.

Nay, anh Đ yêu cầu cá nhân anh H trả số tiền gốc là 100.000.000 đồng và lãi suất theo quy định là 0,83%/tháng, thời gian tính lãi từ ngày 10/3/2017 đến ngày xét xử, theo mức lãi 0,83%/tháng.

Bị đơn anh Dương Văn H và Người đại diện hợp pháp Lý Thu T trình bày:

*Đối với yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị Kim C thì anh H không đồng ý. Bởi vì, trước đây, anh H và anh Đặng T K là chỗ bạn bè thân thiết với nhau.

Đầu năm 2017 anh H nói với anh K việc anh H đang có nhu cầu vay tiền 130.000.000 đồng để xoay sở trong gia đình. Lúc này, anh K nói là có người chị ruột tên Chi cho vay tiền bằng hình thức thế chấp tài sản nên anh K đã giới thiệu anh H vay.

Ngày 12/02/2017 chị C đưa cho anh H số tiền 130.000.000 đồng, không thỏa thuận lãi suất; anh H viết biên nhận nợ với chị C, đồng thời giao cho chị C tài sản thế chấp là chiếc xe ô tô hiệu Honda mang biển số 66A – xxxxx.

Sau đó, anh H trả đủ tiền nợ gốc cho chị C là 130.000.000 đồng và chị C đã giao lại tài sản thế chấp cho anh H.

Đối với biên nhận nợ thì anh H không có lấy lại, do nghĩ đã trả đủ tiền và nhận lại tài sản thế chấp. Chữ ký và chữ viết trong biên nhận nợ với chị C ngày 12/02/2017 là của anh H ghi và ký tên.

Đối với số tiền vay của chị C thì hai bên có thỏa thuận sau 01 tháng kể từ ngày viết biên nhận nợ thì anh H sẽ trả cho chị C. Nếu yêu cầu khởi kiện của chị C có căn cứ để chấp nhận thì anh H xin chị C được giảm bớt phần tiền lãi cho anh H 50%, với mức lãi 0,83%/tháng. Cụ thể số tiền lãi của số tiền 130.000.000 đồng x 0,83%/tháng x 71 tháng 27 ngày (tính từ ngày 12/3/2017 đến ngày 09/3/2023) = 77.580.000 đồng : 2 = 38.790.000 đồng. Như vậy, đối với số tiền lãi của chị C thì anh H xin giảm 38.790.000 đồng tiền lãi và đồng ý trả số tiền lãi là 38.790.000 đồng.

*Đối với yêu cầu khởi kiện của anh Lê Kim Đ thì anh H không đồng ý. Bởi vì, trước đây anh H và anh Đặng T K là chỗ bạn bè thân thiết với nhau.

Đầu năm 2017 anh H nói với anh K việc anh H đang có nhu cầu vay tiền 100.000.000 đồng để xoay sở trong gia đình. Lúc này, anh K nói là có người em ruột tên Đạt cho vay nên anh K đã giới thiệu anh H vay.

Đến ngày 23/02/2017 anh K đưa cho anh H số tiền 100.000.000 đồng, không thỏa thuận lãi suất và yêu cầu anh H viết biên nhận nợ với anh Đ. Đồng thời anh K yêu cầu anh H trả tiền sang anh K để anh K giao lại cho anh Đ, thực tế anh H không hề gặp mặt anh Đ.

Anh H đã trả đủ số tiền nợ trên bằng hình thức gửi tiền vào số tài khoản của anh K tại Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam và Ngân hàng A Đồng Tháp để anh K giao trả tiền lại cho anh Đ. Cụ thể, số tiền anh H đã chuyển khoản cho anh K gồm:

- Giấy nộp tiền ngày 20/12/2017, người nộp Dương Văn H, người nhận tiền Đặng T K, số tiền nhận 7.000.000 đồng. Ngân hàng A.

- Giấy nộp tiền ngày 30/8/2018, người nộp Dương Văn H, người nhận tiền Đặng T K, số tiền nhận 50.000.000 đồng. Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam.

- Giấy nộp tiền không ghi ngày tháng năm, người nộp Dương Văn H, người nhận tiền Đặng T K, số tiền nhận 20.000.000 đồng. Ngân hàng A.

- Giấy nộp tiền tháng 6/2018, người nộp Dương Văn H, người nhận tiền Đặng T K, số tiền nhận 10.000.000 đồng. Ngân hàng A.

- Giấy nộp tiền không ghi ngày tháng năm, người nộp Dương Văn H, người nhận tiền Đặng T K, số tiền nhận 10.000.000 đồng. Ngân hàng A.

- Giấy nộp tiền năm 2018, người nộp Dương Văn H, người nhận tiền Đặng T K, số tiền nhận 9.000.000 đồng. Ngân hàng A.

Như vậy, anh H không còn nợ tiền anh Đ. Đối với biên nhận ngày 23/02/2017 là do anh H ghi và ký tên nhưng khi trả tiền không có lấy lại biên nhận nợ.

Nay, anh Đ kiện cho rằng anh H chưa trả số tiền trên thì anh H yêu cầu anh K trả lại số tiền 106.000.000 đồng đã chuyển khoản và tiền lãi tính từ ngày 30/8/2018 đến ngày xét xử, với lãi suất 0,83%/tháng để anh H trả cho anh Đ.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Đặng T K trình bày:

Anh K và anh H là chỗ bạn bèn thân thiết nhiều năm trước khi chị C và anh Đ cho anh H vay tiền. Do chỗ thân thiết nhiều năm nên anh H có nói đang khó khăn cần vay tiền để xoay sở trong gia đình và hỏi anh K có biết ai cho vay thì chỉ dùm.

Ngày 12/02/2017 anh K có giới thiệu cho anh H vay tiền chỗ chị C số tiền 130.000.000 đồng, lãi suất và thời gian trả do hai bên tự thỏa thuận.

Đến ngày 23/02/2017 anh H tiếp tục nhờ anh K giới thiệu chỗ vay tiếp số tiền 100.000.000 đồng nên anh K có giới thiệu cho anh H gặp anh Đ để vay. Đối với tiền lãi, thời gian trả do hai bên tự thỏa thuận.

Trong thời gian thân thiết với anh H thì anh H có mượn tiền của anh K nhiều lần. Cụ thể có lần anh H nhờ anh Lê Minh V gặp anh K nhận dùm 02 lần, một lần 12.000.000 đồng và một lần 25.000.000 đồng. Đồng thời, anh H nhờ anh Lê Văn D gặp anh K nhận dùm 02 lần, một lần nhận 50.000.000 đồng và một lần nhận 20.000.000 đồng.

Sau đó anh H có chuyển trả qua tài khoản của anh K để trả tiền mượn trên nhiều lần như các hóa đơn anh H đã cung cấp. Như vậy, số tiền anh H chuyển cho anh K là tiền cá nhân anh H mượn của anh K. Giữa anh Đ, anh H và anh K không có thỏa thuận khi anh H trả tiền vay cho anh Đ phải chuyển qua cho anh K.

Nay, anh H không thừa nhận có mượn tiền và nhận tiền từ anh V và anh D thì đối với số tiền mà anh D và anh V nhận dùm cho anh H từ anh K thì anh K cũng không yêu cầu giải quyết trong vụ kiện này.

Nếu sau này có phát sinh tranh chấp thì anh K sẽ khởi kiện bằng vụ kiện khác.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lê Văn D trình bày:

Trước đây anh H có nhờ anh D đến gặp anh K nhận dùm 02 lần tiền anh H mượn của anh K, mỗi lần nhận là 50.000.000 đồng và 20.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền từ anh K thì anh D đưa trực tiếp cho anh H, do anh H từ Cao Lãnh lên Tam Nông nhận trực tiếp, không có làm giấy tờ. Trong thời gian này, anh H có mượn của anh D số tiền 15.000.000 đồng và đến nay anh H vẫn chưa trả cho anh D. Anh D yêu cầu anh H trả lại số tiền này cho anh D và yêu cầu trả lãi theo quy định.

Bản án dân sự sơ thẩm 13/2023/DS-ST ngày 09 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh quyết định:

Căn cứ Điều 166, 463, 466, 468 của Bộ Luật dân sự;

Khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 244, Điều 271; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị Kim C. Buộc anh Dương Văn H phải có nghĩa vụ trả cho chị Đặng Thị Kim C số tiền vay gốc là 130.000.000 đồng và số tiền lãi là 38.790.000 đồng.

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Lê Kim Đ. Buộc anh Dương Văn H phải có nghĩa vụ trả cho anh Lê Kim Đ số tiền vay gốc là 100.000.000 đồng và tiền lãi là 59.760.000 đồng.

- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của anh Dương Văn H. Buộc anh Đặng T K phải có nghĩa vụ trả cho anh Dương Văn H số tiền chuyển khoản là 76.000.000 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền hàng tháng bên phải thi hành còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015. Trừ T hợp các đương sự có thỏa thuận khác.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Đặng Thị Kim C được nhận lại số tiền 4.675.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007706 ngày 25/02/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp (Do Đỗ Ngọc H nộp thay).

Anh Lê Kim Đ được nhận lại số tiền 3.500.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007707 ngày 25/02/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp (Do Đỗ Ngọc H nộp thay).

Anh Dương Văn H phải chịu 16.427.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 2.500.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007975 ngày 16/4/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Anh Dương Văn H còn phải nộp số tiền 13.927.000 đồng tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh (Do Châu Nhật T nộp thay).

Anh Đặng T K phải chịu 3.800.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Ngoài ra bản án còn tuyên quyền kháng cáo và quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự. Sau khi xét xử sơ thẩm anh Dương Văn H kháng cáo yêu cầu:

1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Đặng Thị Kim C, Lê Kim Đ.

2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của anh H về việc buộc anh Đặng T K trả cho anh H số tiền 106.000.000 đồng và tiền lãi tính từ ngày 30/8/2018 đến hết ngày 09/3/2023 với mức lãi suất 0.83%/tháng là 42 tháng 09 ngày bằng 37.215.540 đồng.

Tại phiên tòa phúc thẩm có mặt chị Lý Thu T, anh Nguyễn Phước T, anh Đặng T K. Các đương sự có mặt và khẳng định đã xuất trình thêm đầy đủ chứng cứ cho Tòa án giải quyết vụ án và không có khiếu nại yêu cầu gì thành phần những người tham gia tố tụng.

Chị Lý Thu T trình bày: Anh Dương Văn H cung cấp thêm 02 phiếu thu tiền tại Ngân hàng Nông nghiệp là 30.000.000 đồng chuyển tiền cho anh K nhận. Anh H không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm nên kháng cáo bản án sơ thẩm. Đối với yêu cầu của chị C thì anh H không có chứng cứ gì chứng minh yêu cầu kháng cáo của mình. Đối với số tiền anh H kiện anh K trả 106.000.000 đồng, anh H đồng ý khấu trừ số tiền này vào số tiền anh H phải trả cho anh Đ là 159.760.000 đồng còn lại 53.760.000 đồng anh H sẽ trả cho anh Đ. Đối với số tiền 106.000.000 đồng anh K sẽ trả cho anh Đ. Anh H rút yêu cầu khởi kiện và kháng cáo đối với anh K.

Anh Nguyễn Phước T trình bày: Đề nghị giữ nguyên phần quyết định sơ thẩm đối với số tiền của chị C. Đối với số tiền anh Đ đồng ý chỉ còn yêu cầu anh H trả số tiền 53.760.000 đồng. Anh Đ đồng ý chuyển số tiền 106.000.000 đồng anh H trả cho anh Đ là trừ qua số tiền của anh K đã nhận. Anh Đ sẽ nhận số tiền này từ anh K và không khởi kiện đối với anh K.

Anh Đặng T K trình bày: Đồng ý trả số tiền 106.000.000 đồng cho anh H và khấu trừ số tiền này vào số tiền anh H sẽ trả cho anh Đ. Anh K đồng ý việc rút yêu cầu khởi kiện, kháng cáo anh H, không có tranh chấp gì với anh Đ.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã chấp hành đúng theo quy định của pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng có mặt thực hiện đúng theo quy định pháp luật. Về nội dung giải quyết vụ án xét yêu cầu kháng cáo của anh Dương Văn H là có một phần cơ sở chấp nhận nên đề nghị đình chỉ một phần và sửa một phần nội dung bản án sơ thẩm.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Các đương sự không có đương sự khiếu nại gì về thành phần những người tham gia tố tụng hay có yêu cầu gì khác.

[2] Về nội dung tranh chấp qua thu thập chứng cứ Tòa án cấp sơ thẩm xét: Xét yêu cầu của chị Đặng Thị Kim C yêu cầu anh Dương Văn H trả số tiền vay gốc là 130.000.000 đồng và tiền lãi với mức lãi 0,83%/tháng, tính từ ngày viết biên nhận nợ đến ngày xét xử. Chị C chứng minh theo Biên nhận vay tiền ngày 12/02/2017 do anh H ghi và ký tên và được anh H thừa nhận.

Nội dung biên nhận thể hiện anh H có mượn tiền của chị C với số tiền 130.000.000 đồng, không ghi lãi suất và thời hạn trả.

Anh H cho rằng khi viết biên nhận nợ với chị C thì anh H có thế chấp cho chị C một chiếc xe ô tô con hiệu Honda số 66A-xxxxx. Sau đó anh H đã trả tiền cho chị C và lấy lại chiếc xe nhưng không lấy biên nhận nợ là không phù hợp. Bởi, anh K là người giới thiệu cho anh H vay tiền của chị C đã có lời khai khi anh H nhận tiền vay và viết biên nhận nợ với chị C có mặt anh K và anh K không thấy anh H giao xe hoặc bất kì giấy tờ gì cho chị C, anh H có nói do giấy xe để ở nhà nên để vài hôm đem lên nhưng thực chất anh H không có giao xe và giấy tờ xe cho chị C. Đồng thời, đến nay biên nhận chính do chị C đang giữ.

Về tiền lãi anh H xin phía chị C giảm 50% tiền lãi và chị C đồng ý giảm theo yêu cầu của phía anh H và thống nhất tính lãi từ ngày 12/3/2017 tức ngày vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Cụ thể số tiền lãi của số tiền 130.000.000 đồng x 0,83%/tháng x 71 tháng 27 ngày (tính từ ngày 12/3/2017 đến 09/3/2023) = 77.580.000 đồng : 2 = 38.790.000 đồng. Như vậy, đối với số tiền lãi chị C đồng ý giảm cho anh H là 38.790.000 đồng. Anh H phải trả tiền gốc là 130.000.000 đồng và tiền lãi 38.790.000 đồng.

[3] Xét yêu cầu của anh Đ yêu cầu anh H trả số tiền vay gốc là 100.000.000 đồng. Anh Đ chứng minh theo Biên nhận vay tiền ngày 23/02/2017 nội dung thể hiện anh H có mượn tiền của anh Đ với số tiền 100.000.000 đồng, không ghi lãi suất nhưng có ghi thời hạn trả là 15 ngày.

Anh Đ yêu cầu anh H trả số tiền vay gốc là 100.000.000 đồng và tiền lãi tính từ ngày 10/3/2017 đến ngày 09/3/2023. Cụ thể: 100.000.000 đồng x 0,83%/tháng x 72 tháng = 59.760.000 đồng. Tổng cộng 159.760.000 đồng là phù hợp.

Anh H thừa nhận có mượn của anh Đ số tiền 100.000.000 đồng theo biên nhận nợ nhưng anh H cho rằng đã chuyển vào số tài khoản của anh K để trả cho anh Đ, nhưng anh K lại không giao tiền cho anh Đ. Đồng thời cũng thừa nhận giữa anh H, anh K và anh Đ không có thỏa thuận khi anh H trả tiền cho anh Đ phải đưa cho anh K. Do đó, đối với yêu cầu khởi kiện của anh Đ yêu cầu anh H trả số tiền vay gốc là 100.000.000 đồng và tiền lãi như trên là phù hợp nên chấp nhận yêu cầu của anh Đ đối với anh H.

[4] Xét yêu cầu của anh H đối với anh K về việc yêu cầu anh K trả lại số tiền 106.000.000 đồng và tiền lãi từ ngày 30/8/2018 đến ngày 09/3/2023. Anh H chứng minh bằng:

- Giấy nộp tiền ngày 20/12/2017, người nộp Dương Văn H, người nhận tiền Đặng T K, số tiền nhận 7.000.000 đồng. Ngân hàng A.

- Giấy nộp tiền ngày 30/8/2018, người nộp Dương Văn H, người nhận tiền Đặng T K, số tiền nhận 50.000.000 đồng. Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam.

- Giấy nộp tiền không ghi ngày tháng năm, người nộp Dương Văn H, người nhận tiền Đặng T K, số tiền nhận 20.000.000 đồng. Ngân hàng A.

- Giấy nộp tiền tháng 6/2018, người nộp Dương Văn H, người nhận tiền Đặng T K, số tiền nhận 10.000.000 đồng. Ngân hàng A.

- Giấy nộp tiền không ghi ngày tháng năm, người nộp Dương Văn H, người nhận tiền Đặng T K, số tiền nhận 10.000.000 đồng. Ngân hàng A.

- Giấy nộp tiền năm 2018, người nộp Dương Văn H, người nhận tiền Đặng T K, số tiền nhận 9.000.000 đồng. Ngân hàng A.

Xét thấy trong 06 giấy nộp tiền anh H cung cấp chuyển tiền cho anh K, trong đó có 04 giấy nộp tiền có ghi ngày tháng năm cụ thể với tổng số tiền 76.000.000 đồng là nằm trong khoảng thời gian anh H vay tiền của anh Đ, riêng 02 giấy nộp tiền không ghi ngày tháng năm với số tiền chuyển 20.000.000 đồng và 10.000.000 đồng nên không chứng minh được số tiền này đã chuyển cho anh K vào thời gian nào nên không chấp nhận đối với số tiền này theo yêu cầu của anh H.

Anh K cho rằng trước khi giới thiệu cho anh H vay tiền của chị C và anh Đ thì anh H có mượn tiền của anh K nhiều lần. Ngoài lời khai của anh Lê Minh V và anh Lê Văn D ra thì anh K không có chứng cứ nào khác để chứng minh cho việc anh H có mượn tiền anh K. Do đó, anh K phải có trách nhiệm trả lại số tiền do anh H chuyển khoản 04 lần với tổng số tiền là 76.000.000 đồng.

Đối với tiền lãi anh H yêu cầu anh K trả từ ngày 30/8/2018 đến ngày 09/3/2023 là chưa phù hợp. Bởi, đây là số tiền anh H chuyển khoản cho anh K, không phải tiền vay mượn.

[5] Đối với lời trình bày và yêu cầu của anh Lê Văn D về việc yêu cầu anh H trả số tiền 15.000.000 đồng cho anh D. Nhưng anh D không nộp đơn khởi kiện để được thụ lý giải quyết nên không xem xét trong vụ án này. Nếu sau này có tranh chấp thì sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.

[6] Đồng thời căn cứ vào đây bản án còn quyết định về án phí; chi phí tố tụng theo quy định pháp luật. Ngoài ra bản án còn tuyên về quyền kháng cáo của các đương sự. Sau khi xét xử sơ thẩm anh H kháng cáo đề nghị xét xét xử lại phúc thẩm vụ án.

Qua các chứng cứ có trong hồ sơ và thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:

Đối với yêu cầu kháng cáo của anh H tranh chấp với chị C thì không có chứng cứ gì chứng minh việc anh H trả tiền cho chị C. Do đó không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh H đối với chị C.

Đối với số tiền anh Đ khởi kiện, anh H cung cấp thêm 2 chứng cứ chuyển tiền cho anh K thêm 30.000.000 đồng và đồng ý khấu trừ tổng số tiền anh K trả cho anh H là 106.000.000 đồng; đồng thời anh H trả số tiền còn lại 53.760.000 đồng cho anh Đ. Anh H rút yêu cầu khởi kiện, kháng cáo đối với anh K.

Anh Toàn đại diện cho anh Đ với anh K là đồng ý anh Đ yêu cầu chuyển nghĩa vụ anh K trả số tiền 106.000.000 đồng. Chỉ yêu cầu anh H trả số tiền 53.760.000 đồng và không có yêu cầu khởi kiện đối với anh K.

Anh K đồng ý với việc rút yêu cầu khởi kiện của anh H.

Do đó công nhận sự thỏa thuận tự nguyện của các đương sự. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của các đương sự. Sửa một phần bản án sơ thẩm.

[7] Đại diện Viện kiểm sát đề nghị đình chỉ một phần và sửa một phần bản án sơ thẩm; việc đề nghị là phù hợp pháp luật nên chấp nhận.

Các phần còn lại của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[8] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do sửa một phần bản án sơ thẩm nên anh H không phải chịu án phí dân sự phức thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 2 Điều 308; Điều 148 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

- Chấp nhận một phần kháng cáo của anh Dương Văn H.

- Đình chỉ một phần bản án sơ thẩm số 13/2023/DS-ST ngày 09 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh.

- Sửa một phần bản án sơ thẩm số 13/2023/DS-ST ngày 09 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh.

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị Kim C. Buộc anh Dương Văn H phải có nghĩa vụ trả cho chị Đặng Thị Kim C số tiền vay là 168.790.000 đồng.

2/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Lê Kim Đ. Buộc anh Dương Văn H phải có nghĩa vụ trả cho anh Lê Kim Đ số tiền là 53.760.000 đồng.

3/ Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền hàng tháng bên phải thi hành còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật dân sự 2015. Trừ T hợp các đương sự có thỏa thuận khác.

4/ Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của anh Dương Văn H đối với anh Đặng T K về việc trả số tiền 76.000.000 đồng mà anh H chuyển khoảng cho anh K.

5/ Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Đặng Thị Kim C được nhận lại số tiền 4.675.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007706 ngày 25/02/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp (Do Đỗ Ngọc H nộp thay).

Anh Lê Kim Đ được nhận lại số tiền 3.500.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007707 ngày 25/02/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp (Do Đỗ Ngọc H nộp thay).

Anh Dương Văn H phải chịu 11.127.500 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 2.500.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007975 ngày 16/4/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Anh Dương Văn H còn phải nộp số tiền 8.627.500 đồng tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh.

Anh Đặng T K phải chịu 3.800.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

6/ Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Dương Văn H không phải chịu tiền án dân sự phúc thẩm. Anh H được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0012104, ngày 29/3/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp T hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

46
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 334/2023/DS-PT

Số hiệu:334/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 21/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về